Mùa hè nóng ẩm, ruồi nhặng phát triển nhiều, dễ làm nhiễm khuẩn thức ăn nên nguy cơ lây bệnh càng cao.
Vi khuẩn thương hàn lây qua đường tiêu hóa
Trực khuẩn thương hàn có tên khoa học là Salmonella typhi và 3 loại phó thương hàn có tên khoa học là Salmonella paratyphi A, B, C cùng gây ra bệnh thương hàn. Vi khuẩn có thể sống hàng tháng ngoài môi trường. Chúng bị tiêu diệt ở nhiệt độ 55 độ C trong 30 phút, cồn và các loại thuốc sát khuẩn khác diệt được vi khuẩn trong thời gian từ 3 - 5 phút. Bệnh thường xảy ra ở những nơi có điều kiện sinh hoạt kém vệ sinh.
Người là ổ chứa vi khuẩn thương hàn chính, gồm bệnh nhân và người lành mang trùng. Vi khuẩn thương hàn sống trong túi mật, được đào thải qua phân ra môi trường. Người bị mắc bệnh do ăn hoặc uống nước bị nhiễm vi khuẩn thương hàn và phó thương hàn. Chúng xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hóa tới lách, sau đó phát triển rồi xâm nhập vào máu và gây bệnh. Các trường hợp dễ bị lây bệnh là: uống nước lã, nước đá; ăn phải thức ăn bị nhiễm vi khuẩn như trai, ốc, hến, hàu, nghêu, sò... chưa nấu chín kỹ; ăn rau sống; dùng sữa và các chế phẩm từ sữa bị nhiễm vi khuẩn thương hàn; ruồi, nhặng làm lây nhiễm vi khuẩn từ bệnh phẩm vào thức ăn.
Ăn rau sống không đảm bảo ATTP, dễ lây nhiễm bệnh thương hàn.
Dấu hiệu của bệnh
Bệnh nhân bị bệnh thương hàn có dấu hiệu đặc biệt là sốt liên tục, sốt cao đến 40oC, vã nhiều mồ hôi, viêm dạ dày ruột và tiêu chảy. Có thể kèm theo ban dát, chấm màu đỏ hồng trên da.
Một ca bệnh điển hình, chưa được phát hiện và điều trị, diễn biến qua 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn kéo dài khoảng 1 tuần, như sau:
Ban đầu, bệnh nhân sốt tăng từ từ, tương ứng với nhịp tim, có kèm theo nhức đầu và ho; chảy máu mũi (chảy máu cam) ở 25% các trường hợp và đau bụng. Nuôi cấy máu tìm thấy vi khuẩn Salmonella typhi hay Paratyphi.
Tuần thứ 2, bệnh nhân nằm liệt giường, sốt cao ở mức 40oC, nhưng nhịp tim chậm, gọi là tình trạng mạch nhiệt phân ly. Bệnh nhân luôn bị mê sảng, li bì, nhưng thỉnh thoảng lại bị kích thích. Vì mê sảng nên người ta gọi là “sốt thần kinh”. Khoảng 33% bệnh nhân trên da vùng thấp của ngực và bụng xuất hiện chấm ban hồng. Nghe phổi thấy ran ngáy ở đáy phổi. Bụng bệnh nhân trướng căng và đau ở vùng dưới phải, kèm theo tiếng sôi bụng. Bệnh nhân đi tiêu từ 6 - 8 lần/ngày, phân màu xanh lục, mùi đặc trưng. Tuy nhiên, có nhiều bệnh nhân thương hàn lại bị táo bón. Gan và lách to, xét nghiệm thấy men gan transaminases tăng.
Tuần thứ 3, thường xảy ra một số biến chứng như: xuất huyết tiêu hóa, có khi rất trầm trọng; thủng ruột non: là biến chứng rất nặng có thể gây tử vong do nhiễm khuẩn huyết và viêm phúc mạc lan tỏa; viêm não; gây mủ ở cơ quan khác, viêm túi mật, viêm nội tâm mạc, viêm xương. Thân nhiệt của bệnh nhân tiếp tục tăng và rất ít dao động suốt hơn 24 giờ. Tình trạng mất nước xảy ra sau đó và bệnh nhân mê sảng. Đến cuối tuần thứ 3, bệnh nhân bắt đầu giảm sốt.
Tuần thứ 4, nếu không bị biến chứng, bệnh nhân sẽ khá dần lên sau một giai đoạn từ 7 - 10 ngày.
Trên thực tế, cũng hay gặp bệnh nhân mắc thương hàn với các biểu hiện: sốt tăng dần, rối loạn tiêu hóa, bụng trướng, có dấu hiệu sôi bụng ùng ục ở hố chậu phải; bị phát ban dạng sởi ở vùng quanh thắt lưng. Bệnh nhân còn bị loét họng, loét ruột gây chảy máu ruột do độc tố thương hàn gây ra. Độc tố vi khuẩn cũng gây nhiễm độc cơ tim, gây viêm cơ tim, trụy tim mạch. Nếu độc tố nhiễm vào não thất gây triệu chứng mạch nhiệt phân ly, viêm não rất đặc thù của bệnh thương hàn.
Các trường hợp mắc thương hàn nhẹ, có triệu chứng giống như viêm dạ dày, viêm ruột gây nên tiêu chảy.
Cách chữa trị và phòng ngừa
Điều trị chủ yếu là diệt vi khuẩn thương hàn bằng các loại thuốc kháng sinh như ampicillin, chloramphenicol, trimethoprim-sulfamethoxazole, amoxicillin, ciprofloxacin. Thời gian dùng kháng sinh cho bệnh nhân thương hàn trung bình là 14 ngày. Nếu không điều trị, bệnh nhân sẽ tử vong từ 10 - 30%. Đối với người già và người ốm lâu ngày thường có tiên lượng xấu. Trái lại, ở trẻ em, bệnh thường nhẹ hơn.
Chủ yếu là dùng vaccin phòng bệnh thương hàn cho các đối tượng là người có tiếp xúc với bệnh nhân trong cùng gia đình, các hộ sống cùng địa bàn nơi ổ bệnh xuất phát, người đến vùng có dịch tễ và khi có dịch xảy ra. Hiện nay, có 2 loại vaccin uống nhiều lần và vaccin tiêm một lần, tác dụng như nhau, nhưng dạng uống ít tác dụng phụ hơn, tiện dùng hơn.
Vaccin tiêm có thời gian bảo vệ ít nhất là 3 năm, dùng để phòng bệnh cho người lớn và trẻ em trên 5 tuổi.
Vaccin uống cũng có thời gian bảo vệ ít nhất là 3 năm, dùng để phòng bệnh thương hàn và phó thương hàn. Loại vaccin này không dùng cho các đối tượng: bị suy giảm miễn dịch; đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch và kháng sinh; đang bị sốt cấp tính, nhiễm khuẩn đường ruột cấp tính; trẻ em dưới 3 tháng tuổi; phụ nữ có thai.
Thực hiện ăn chín uống sôi. Rửa tay sạch trước khi ăn uống, sau khi lao động, tiếp xúc với đồ vật. Cần xử lý tốt các chất thải của bệnh nhân. Dùng lồng bàn đậy thức ăn khỏi bị ruồi, nhặng làm nhiễm bẩn. Những người lành mang vi khuẩn không được phép làm việc ở các cơ sở dịch vụ ăn uống. Tích cực diệt ruồi, nhặng, gián...
Sức khỏe và đời sống