Tên thật của ông là Arthur Antunes Coimbra và là một tiền vệ cũng từng mang chiếc áo số 10 trùng với số áo của huyền thoại bóng đá Pele.
Ông được danh thủ huyền thoại Pele phong danh hiệu là một trong 125 cầu thủ vĩ đại nhất đương đại vào tháng 3/2004. Ông được coi là cầu thủ Brazil giỏi nhất sau Pele và Garrincha.
Zico đã từng thi đấu trong màu áo đội tuyển quốc gia tham dự các kỳ World Cup năm 1978, 1982 và 1986, ghi được 52 bàn thắng trong tổng số 72 trận đấu của đội tuyển Brazil.
Năm 1983, Zico đoạt danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất thế giới và được xem như một trong những cầu thủ chơi hay nhất trong lịch sử bóng đá. Ông cũng là một cầu thủ hàng đầu Brazil ghi được nhiều bàn thắng nhất tại World Cup 1982. ĐT Brazil cũng được xem là một trong những đội tuyển quốc gia mạnh nhất thế giới. Zico đặc biệt nổi tiếng với những pha ghi bàn đẹp mắt mà có lúc ngỡ như không thể vào khung thành được.
Zico xuất thân từ một gia đình nghèo khó ở vùng ngoại ô Quintino, Rio de Janeiro. Cũng giống như nhiều thanh niên Brazil khác, ông chơi bóng như một thú tiêu khiển hàng ngày và đêm về lại mơ sẽ trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp.
Ông đạt được nhiều thành công cùng tuyển Brazil
Khi còn tuổi thiếu niên, Zico đã lọt vào mắt của một phát thanh viên đài phát thanh, Celso Garcia – người đã đưa Zico đến chơi thử cho CLB Flamengo, và Zico dần dần trở thành một trong những cầu thủ được ngưỡng mộ nhất trong lịch sử bóng đá.
Về thể chất, Zico không có thân hình vạm vỡ và có tiền sử bị sung huyết. Do đó, ông đã phải thực hiện một chế độ tập luyện cho hệ cơ và thân thể. Sự kết hợp giữa tập luyện chăm chỉ và chế độ ăn uống dưới sự bảo trợ của CLB đã giúp ông có một cơ thể cường tráng với sức vóc như một vận động viên. Và chính điều này là yếu tố quyết định sự thành công của ông sau này.
Sự nghiệp
Khi còn ở Flamengo, Zico luôn là con át chủ bài trong suốt thời gian vinh quang của lịch sử CLB. Từng đoạt nhiều danh hiệu khác nhau, Zico trong thời gian đầu ở Flamengo đã đưa CLB lên đỉnh vinh quang tại giải Copa Libertadores và Cup Liên lục địa năm 1981, thêm cả 3 lần vô địch quốc gia.
Trong khi thi đấu, Zico ghi bàn thắng bằng những cách không thể tưởng tượng nổi, ông không những vừa là người tổ chức, vừa là cộng sự vĩ đại của đội mà còn nổi tiếng vì khả năng bao quát trên sân. Ông chơi bóng thuận cả hai chân và là một chuyên gia của các quả đá tự do.
Một huyền thoại của làng túc cầu giáo
Trong một kỳ chuyển nhượng trị giá hàng triệu USD, ông đã chuyển sang chơi cho CLB Udinese của Ý từ năm 1983 đến 1985. Mặc dù để lại trong lòng các CĐV Brazil một nỗi buồn, Zico vẫn giúp CLB Udinese trở thành một trong những CLB hàng đầu Italia. Tuy nhiên, sau này CLB cũng không giành được chiến thắng ở những giải đấu quan trọng, và cuối cùng, Zico đã quay trở lại Brazil và CLB Flamengo dưới sự bảo trợ của một nhóm các công ty lớn.
Trở lại Brazil và thi đấu cho CLB Flamengo, Zico đã bị chấn thương đầu gối sau một pha va chạm với hậu vệ Marcio Nunes của CLB Bangu và phải nghỉ thi đấu mấy tháng. Ông vẫn tham dự World Cup 1986 trong khi chưa khỏi hẳn chấn thương.
Tại giải đấu lớn nhất thế giới năm ấy, ông đã sút hỏng một quả phạt đền trong thời gian hai hiệp đấu với ĐT Pháp. Trận đấu kết thúc với tỉ số hoà và 2 đội phải thi đá luân lưu 11m. Sau khi Sócrates và Júlio Césarmột sút hỏng một loạt các quả đá penalty, Zico đã sút thành công và trở thành người hùng mang lại chiến thắng cho ĐT Brazil.
Phục hồi sức khoẻ sau chấn thương, Zico lấy lại được phong độ, và năm 1987 ông đã dẫn dắt CLB Flamengo đứng thứ 4 trong giải vô địch quốc gia. Nhiều người đánh giá Zico là cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử của CLB Flamengo.
Những thành tích thi đấu của ông đã khơi nguồn cảm hứng cho ca sĩ Jorge Benjor sáng tác một bài hát mang tên "Camisa 10 da Gávea" để thể hiện sự ngưỡng mộ tài danh Zico. Bài hát này cũng tạo ra một huyền thoại về Số 10 của CLB.
Sau đợt bầu cử Tổng thống đầu tiên của Brazil trong nhiều năm, ngài tân Tổng thống Fernando Collor de Mello đã cử Zico là Bộ trưởng Bộ thể thao. Trong khoảng 1 năm đương nhiệm, ông đã có đóng góp quan trọng nhất cho nền bóng đá Brazil, đó là xây dựng một điều luật liên quan đến tính thương mại của các CLB trong nước. Sở dĩ Zico làm vậy vì hầu hết các CLB vẫn tồn tại như các tổ chức nghiệp dư chứ không phải chuyên nghiệp.
Zico bỏ ngang vị trí chính trị để tiếp nhận một công việc khác thú vị hơn có lợi cả về vật chất và tinh thần. Đó là vào năm 1991, Zico gia nhập đội bóng của tập đoàn công nghiệp luyện kim Sumitomo (hiện nay là CLB Kashima Antlers). Ông đã giúp CLB vừa nhỏ vừa không chuyên trước kia của thành phố Kashima-cho (nay là TP Kashima) trở thành một trong những CLB giỏi nhất Nhật Bản.
Phong cách huấn luyện, tài năng cộng với trình độ chuyên môn chuyên nghiệp của Zico đã hoà nhập được với nền văn hoá Nhật Bản. Ông đã mang chất Nhật Bản áp dụng vào tất cả các khía cạnh phát triển của CLB, và với vị trí là môt cầu thủ, ông nhanh chóng trở thành thần tượng quốc gia sau nhiều pha ghi bàn tuyệt đỉnh và vai trò trợ lý chuyên môn của ông.
Năm 1994, Zico nghỉ thi đấu và chuyển sang làm cố vấn chuyên môn cho Kashima Antlers, phân chia thời gian của mình cho cả Nhật Bản và Brazil. Năm sau nữa, ông thành lập Trung tâm bóng đá Zico CFZ ở Brazil.
Huấn luyện viên ĐT Nhật Bản
Ảnh hưởng của Zico và vai trò của ông trong việc phát triển bóng đá Nhật Bản lớn chưa từng có: các quảng trường công cộng đều có tên ông, các bức tượng chân dung ông được xây dựng khắp nơi và trở thành hình ảnh để quảng cáo cho ấn phẩm gần đây nhất của NXB Winning Eleven Asia.
Ông thay thế Philippe Troussier để trở thành HLV của ĐT quốc gia Nhật Bản vào tháng 7 năm 2002. Bất chấp sự khởi đầu không suôn sẻ và nhiều lời bàn tán về việc ông nên rút lui, cộng thêm một lời đề nghị kỳ quặc mời ông về làm cầu thủ cho một CLB không chút tiếng tăm nào của Anh, ông vẫn quyết định ở lại vị trí cũ.
Ông đã dẫn dắt đội tuyển Nhật Bản giành Cup Kirin (Giải đấu thường niên của Nhật do tập đoàn Kirin tài trợ), Cup châu Á năm 2004 và giúp cho ĐT đủ tiêu chuẩn tham dự World Cup 2006. Và, Zico cũng tuyên bố sẽ thôi không làm HLV nữa sau khi giải đấu lớn nhất hành tinh năm nay kết thúc.
Danh hiệu đạt được cùng CLB
- Vô địch Brazil các năm 1980, 1982, 1983, 1987 (CLB Flamengo)
- Giành Cúp Copa Libertadores của Nam Mỹ năm 1981 (Flamengo)
- Cúp Liên lục địa năm 1981 (Flamengo)
- Đứng vị trí đầu bảng ở giải các đội mạnh của Nhật Bản năm 1993 (CLB Kashima).
Các danh hiệu quốc tế:
- World Cup 1978: Vị trí thứ 3
- World Cup 1982: Thứ 5 (vòng 2)
- World Cup 1986: vào vòng tứ kết
Danh hiệu cá nhân:
Năm 1974:
- Cầu thủ xuất sắc nhất do tạp chí Placar (Brazil) bình chọn.
- Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa giải của CLB Flamengo năm - 49 bàn.
Năm 1976: Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa giải của CLB Flamengo - 56 bàn.
Năm 1977: Cầu thủ Nam Mỹ xuất sắc nhất do tạp chí El Mundo bình chọn.
Năm 1980: Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất tại giải vô địch Brazil - 21 bàn.
Năm 1981:
- Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất tại Cup Libertadores của Nam Mỹ - 11 bàn
- Cầu thủ chơi hay nhất tại Cúp Liên lục địa.
- Cầu thủ Nam Mỹ xuất sắc nhất do tạp chí El Mundo bình chọn.
- Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới do các tạp chí Guerin Esportivo (Italy), El Balón (Tây Ban Nha), El Mundo (Venezuela) và Placar (Brazil) bình chọn.
Năm 1982:
- Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất tại giải vô địch Brazil - 20 bàn.
- Cầu thủ Brazil xuất sắc nhất trong năm do tạp chí Placar (Brazil) bình chọn.
- Cầu thủ Brazil ghi nhiều bàn thắng nhất trong năm - 59 bàn.
- Cầu thủ Nam Mỹ xuất sắc nhất dưới sự bình chọn của các tạp chí El Gráfico (Argentina), El Mundo (Venezuela).
Mùa giải 1983/84:
- Cầu thủ xuất sắc nhất trong năm do tạp chí các cầu thủ hay nhất thế giới của Anh bầu chọn.
Năm 1992: Lập kỷ lục ghi bàn trong các trận của một vòng đấu tại giải vô địch Nhật Bản - 11 bàn/10 trận.
VTV