Người lao động này cho biết, trong quá trình hưởng trợ cấp BHTN, tháng 10/2024 là tháng cuối cùng họ được nhận trợ cấp và đã nhận trước khi chính thức tham gia BHXH tại công ty mới. Điều đáng nói là, trong tháng 9/2024, người lao động đã bắt đầu làm việc tại công ty mới, nhưng đang trong giai đoạn thử việc và chưa ký hợp đồng lao động chính thức. Vấn đề đặt ra là, liệu trong trường hợp này, người lao động có phải hoàn trả lại số tiền trợ cấp đã nhận hay không?
Để làm rõ vấn đề này, BHXH Việt Nam đã viện dẫn các quy định pháp luật hiện hành, cụ thể là Nghị định số 28/2015/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 61/2020/NĐ-CP và Luật Việc làm.
Khi nào người lao động được xem là "có việc làm"?
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 21 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 61/2020/NĐ-CP), người lao động được xác định là "có việc làm" khi thuộc một trong các trường hợp sau:
Theo quy định, trường hợp người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp mà có việc làm mới, sẽ bị tạm dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp (Ảnh minh hoạ)
Đã giao kết hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo công việc nhất định có thời hạn từ đủ 1 tháng trở lên. Ngày mà người lao động được xác định có việc làm là ngày hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động có hiệu lực theo quy định của pháp luật;
Có quyết định tuyển dụng hoặc bổ nhiệm đối với những trường hợp không thuộc đối tượng giao kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Ngày mà người lao động được xác định có việc làm trong trường hợp này là ngày người lao động được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm ghi trong quyết định tuyển dụng hoặc bổ nhiệm.
Có giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh đối với trường hợp người lao động là chủ hộ kinh doanh hoặc có giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với trường hợp người lao động là chủ doanh nghiệp.
Ngày mà người lao động được xác định có việc làm là ngày người lao động thông báo với trung tâm dịch vụ việc làm về việc hộ kinh doanh hoặc doanh nghiệp bắt đầu hoạt động.
Bên cạnh đó, theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 53 Luật Việc làm người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có việc làm.
Tại khoản 4 Điều 53 Luật Việc làm cũng nêu rõ, đối với trường hợp bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp do có việc làm, thời gian đóng tương ứng với thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp mà người lao động chưa nhận tiền trợ cấp thất nghiệp sẽ được bảo lưu làm căn cứ tính hưởng trợ cấp thất nghiệp cho lần hưởng tiếp theo.
(Ảnh minh hoạ)
Còn theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 61/2020/NĐ-CP, trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày có việc làm, người lao động phải thông báo với trung tâm dịch vụ việc làm nơi đang hưởng trợ cấp thất nghiệp và kèm theo bản sao giấy tờ có liên quan đến việc chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Nếu không thông báo đúng thời hạn nêu trên sẽ không được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp tương ứng với thời gian mà người lao động chưa nhận trợ cấp thất nghiệp.
Như vậy, trường hợp người lao động đã nhận trợ cấp thất nghiệp trong khoảng thời gian đã có việc làm thì phải hoàn trả lại số tiền đã nhận.
Điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp
Theo quy định tại Điều 49 Luật Việc làm, người lao động quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật này đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đủ các điều kiện: Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp sau đây, như: người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật; hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng.
(Ảnh minh hoạ)
Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật này; đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật này.
Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, trừ các trường hợp sau đây:
Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù; ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng; chết.
T.Hà (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)