Căn cứ theo khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp:
(1) Vợ, chồng được thừa kế riêng, tặng cho riêng.
(2) Vợ, chồng có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Đồng thời, nếu không có căn cứ chứng minh tài sản tranh chấp là tài sản riêng thì sẽ được coi là tài sản chung.
Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 135 Luật Đất đai 2024 quy định cụ thể như sau:
Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người để đứng tên làm đại diện cho vợ và chồng.
Để xác định người vợ hoặc chồng có được đứng tên một mình trên sổ đỏ, cần xem xét nguồn gốc số tiền mua đất là tài sản chung hay tài sản riêng. (Ảnh minh họa)
Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng mà Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã cấp chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc chồng thì được cấp đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất để ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng nếu có yêu cầu.
Đồng thời, tại khoản 1 Điều 34 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định như sau:
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Theo quy định này, khi nhà, đất là tài sản chung vợ, chồng thì phải ghi cả tên vợ và tên chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (hay thường gọi là sổ đỏ) trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Theo đó, nếu sau khi kết hôn vợ, chồng mua đất thì đây sẽ là tài sản chung vợ chồng và được ghi tên cả hai người trừ trường hợp thừa kế, tặng cho, mua bằng tiền riêng của một trong hai hoặc hai người có thỏa thuận chỉ đứng tên một người hoặc thỏa thuận đây là tài sản riêng.
Như vậy, nếu đất mua sau khi kết hôn bằng tiền riêng (được chứng minh rõ ràng là tài sản riêng) thì được đứng tên một mình trên sổ đỏ.
Ngược lại, nếu đất mua sau khi kết hôn bằng tài sản chung của hai vợ chồng, dù sổ đỏ chỉ đứng tên một người thì vẫn là tài sản chung. Khi chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp… phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
H.Anh (TH) (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)