Theo nhà nghiên cứu Đỗ Hoàng Anh, chủ biên ấn phẩm Chợ Đồng Xuân - Không gian ký ức (ấn phẩm do Trung tâm Lưu trữ quốc gia I thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước cùng Công ty Cổ phần Đồng Xuân biên soạn), lịch sử hình thành và phát triển chợ Đồng Xuân song hành cùng nhịp thở của phố phường Hà Nội.
Mỗi gian hàng như một mạch máu của đô thị, mỗi tiếng rao như nhịp đập của thành phố ngàn năm. Và trong dòng chảy ấy, cuối thế kỷ 19, khi người Pháp quy hoạch lại Hà Nội, chợ Đồng Xuân đã ra đời.
Phía trước chợ Đồng Xuân khoảng giữa thế kỷ 20 (Ảnh: DHA Collection).
Sự ra đời của chợ Đồng Xuân
Ấn phẩm Chợ Đồng Xuân - Không gian ký ức khảo cứu các tài liệu lịch sử, văn hóa về chợ Đồng Xuân được lưu trữ tại Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Bộ Nội Vụ.
Theo đó, chợ Đồng Xuân là biểu tượng văn hóa - lịch sử gắn liền với ký ức đô thị của người dân Thủ đô, đã trải qua gần 135 năm từ lúc hình thành cho tới ngày nay.
Trong các tài liệu lịch sử tại Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước có nội dung cho biết, trước năm 1890, Hà Nội chỉ có những ngôi chợ họp ngoài trời hoặc mái lá đơn sơ. Trong số đó, chợ Cầu Đông là cái tên nổi bật, gắn liền với đời sống người dân Kẻ Chợ (tên gọi dân gian của kinh đô Thăng Long - Hà Nội) từ thuở xa xưa.
Không rõ chợ có từ bao giờ, nhưng từ đầu thời Lý, quanh ngôi chùa Cầu Đông cổ kính trên phố Hàng Đường đã có cảnh họp chợ tấp nập, gần đền Bạch Mã, một trong "Thăng Long tứ trấn".
Khi ấy, một nhánh sông Tô Lịch từ Hàng Cá chảy qua Ngõ Gạch, đổ vào dòng Nhị Hà mênh mang, như một sợi chỉ xanh nối chợ với bến sông, trên đó bắc một chiếc cầu đá biểu tượng cho sự giao thương.
Nhưng rồi, trong một cơn biến chuyển cuối thế kỷ 19, nhánh sông bị lấp, chiếc cầu đá bị dỡ bỏ và chợ tan dần. Cái tên Cầu Đông chỉ còn lại trên tấm biển và trong tiếng chuông chùa ngân vang giữa Hàng Đường.
Từ khoảng trống ấy, một cái tên mới trỗi dậy: Chợ Đồng Xuân. Vốn là tên một tổng của Hà Nội, nó được dân gian đặt cho ngôi chợ mới, như một cách để người Hà Nội lưu giữ nét truyền thống trong lòng phố thị đang dần Tây phương hóa.
Sau biến động 1885, chính quyền Pháp bắt đầu bàn thảo việc xây dựng các khu chợ có mái che ở Hà Nội. Tháng 10/1886, Tòa Công sứ Hà Nội cho đăng yết thị trên tờ L’Avenir du Tonkin, mở một “cuộc điều tra công khai” về việc lập chợ: Lợi ích, vị trí, thuế khóa…
Bản đồ Hà Nội năm 1885, vị trí phố “Chợ Nhớn” - khu vực Chợ chính Đông thành Hà Nội (Ảnh: BNF).
Ngày 17/12/1887, trong phiên họp của Hội đồng thành phố Hà Nội, những vấn đề về trật tự đô thị hiện đại như lò mổ, chợ, cống rãnh được bàn thảo.
Khoảng nửa năm sau, ngày 6/4/1888, Tổng trú sứ Trung - Bắc Kỳ chính thức công bố quyết định xây dựng 4 khu chợ có mái che tại Hàng Tre, Hàng Gạo (Đồng Xuân), Đường Thành và Đồng Khánh (Hàng Bài).
Đây là bước đi thực dụng, song cũng mang tính biểu tượng cho công cuộc quy hoạch đô thị Hà Nội theo mô hình phương Tây.
Trong số đó, chợ Đồng Xuân được định vị như trung tâm giao thương lớn nhất Bắc Kỳ. Người Pháp gọi nó là "Les Halles centrales" (Chợ trung tâm), hay "Grand Marché" (Chợ lớn).
Nghị định ngày 6/4/1888 của Tổng trú sứ Trung - Bắc Kỳ công bố quyết định xây dựng 4 khu chợ có mái che tại Hàng Tre, Hàng Gạo (Đồng Xuân), Đường Thành và Đồng Khánh (Hàng Bài) (Nguồn: TTLTQGI).
Vượt qua những ngày đầu sóng gió để trở thành trung tâm giao thương lớn nhất Bắc Kỳ
Thế nhưng, con đường hình thành của chợ không hề êm ả. Sau quyết định năm 1888, việc xây dựng được giao cho kiến trúc sư Leyret, nhưng hợp đồng đã không được thực hiện đúng hạn. Quyền khai thác chợ cũng gây ra tranh cãi.
Một thương nhân từ Sài Gòn tên Assam giành được quyền khai thác, nhưng sau đó bán lại cho Pelissier. Vụ việc bùng phát thành một vụ kiện thương mại giữa Leyret và Pelissier, vì Leyret từ chối bàn giao sắt thép, trở thành một trong những vụ kiện đầu tiên liên quan đến lịch sử của chợ Đồng Xuân.
Một công trình chưa thành hình đã vướng vào vòng xoáy lợi ích, phản ánh chính bản chất phức tạp của mọi trung tâm buôn bán.
Trước khi trở thành trái tim thương mại, khu đất Đồng Xuân là một mảnh ghép bình dị của đình, chùa, ao hồ. Nhưng khi làn sóng quy hoạch thuộc địa tràn tới, những ký ức làng quê ấy dần nhường chỗ cho một diện mạo mới: Một khu chợ quy củ, dựng bằng khung thép hiện đại.
Để xây dựng chợ Đồng Xuân, chính quyền bắt đầu trưng dụng đất, khiến hàng loạt chủ đất phải nhượng lại, từ nhà buôn nổi tiếng Jean Dupuis đến hơn 3.500m² đất đình, chùa.
Khác với các chợ truyền thống mái lá, Đồng Xuân ngay từ đầu đã mang hơi thở hiện đại với khung thép, mái tôn, những vật liệu phương Tây tạo nên dáng vẻ khác biệt.
Năm 1890, 2 dãy nhà khung thép đầu tiên được dựng lên, dù phải chỉnh sửa lại. Từ đây, những sạp lá, gánh hàng rong tản mác được gom tụ về một điểm.
Chợ Đồng Xuân những năm 1890 với hai dãy nhà khung thép mái tôn đầu tiên (Ảnh: Université Côte d'Azur).
Năm 1895, Hội đồng thành phố quyết định san lấp ao phía sau Hàng Gạo, biến nền đất trũng thành không gian chợ khang trang.
Trong thập niên 1920, Thành phố tiếp tục mở rộng phố Hàng Khoai và thu mua khu đất rộng 10.000m² của Xưởng dệt Bourgouin (sau sáp nhập vào Nhà máy Sợi Bắc Kỳ).
Đến năm 1930, tường rào kiên cố được dựng lên, biến Đồng Xuân thành trung tâm buôn bán sầm uất nhất Hà Nội.
Khi đường ray tàu điện rẽ qua phố, khi cầu Doumer vắt ngang sông Hồng, khi tuyến thương mại Đông Dương mở tới Vân Nam, Hải Phòng, chợ Đồng Xuân đã trở thành trung tâm thương mại lớn nhất Bắc Kỳ. Nơi đây là đầu mối phân phối hàng hoá, sợi dây nối liền nông thôn và thành thị, truyền thống và hiện đại.
Sau khi được chính thức xây dựng vào năm 1890, chợ có 5 vòm cửa và 5 nhà cầu có chiều dài 52 m, cao 19 m, rộng 25 m. Toàn bộ khu chợ có diện tích khoảng 6.500 m2. Mặt tiền mang lối kiến trúc Pháp với 5 phần hình tam giác có trổ lỗ như tổ ong, lợp mái tôn. Ảnh: Flickr.
Nhưng trên hết, chợ Đồng Xuân là ký ức tập thể về một Hà Nội mộc mạc, náo nhiệt mà bền bỉ. Giữa những gian hàng chen chúc, người ta không chỉ mua bán, mặc cả, mà còn kết bạn, uống trà, thậm chí se duyên.
Chợ Đồng Xuân vì thế là một "phòng khách tập thể" khác của Hà Nội, không tráng lệ như Nhà hát Lớn, không uy nghiêm như Văn Miếu, nhưng sinh động và chân thực.
Cho đến hôm nay, tiếng rao, mùi quẩy nóng, âm thanh xe kéo, khói hương từ những bàn thờ nhỏ nép nơi góc chợ vẫn ngân vang, như một nốt trầm gìn giữ hồn phố thị Hà Nội.
*Theo tài liệu từ Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước.
N.Minh (TH) (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)