Luật Đất đai 2024 đã có những giải thích rõ ràng về các thuật ngữ liên quan đến vi phạm pháp luật đất đai. Cụ thể, Khoản 31 Điều 3 định nghĩa lấn đất là hành vi người sử dụng đất làm dịch chuyển mốc giới hoặc ranh giới thửa đất nhằm mở rộng diện tích đất đang sử dụng mà chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc người sử dụng hợp pháp đồng ý. Trong khi đó, Khoản 9 Điều 3 lại làm rõ chiếm đất là việc sử dụng đất thuộc quản lý của Nhà nước khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền, hoặc sử dụng đất của người sử dụng đất hợp pháp khác mà chưa nhận được sự đồng ý của họ.
Dưới đây là các trường hợp cụ thể được quy định tại Điều 139 mà người dân có thể được xem xét cấp sổ đỏ dù có hành vi lấn, chiếm đất trước ngày 01/07/2014:
Một số trường hợp lấn, chiếm đất được cấp sổ đỏ theo quy định Luật đất đai 2024 (Ảnh minh hoạ)
Trường hợp 1 là hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trước ngày 1/7/2014 do lấn, chiếm hành lang bảo vệ an toàn công trình công cộng sau khi Nhà nước đã công bố, cắm mốc hành lang bảo vệ; hoặc lấn, chiếm lòng đường, lề đường, vỉa hè sau khi Nhà nước đã công bố chỉ giới xây dựng; hoặc lấn đất, chiếm đất sử dụng cho mục đích xây dựng trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp, công trình công cộng khác.
Với các trường hợp này, Nhà nước thu hồi đất để trả lại cho công trình mà không cấp giấy chứng nhận đối với diện tích đất đã lấn, chiếm.
Tuy nhiên, trường hợp đã có điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt mà nay diện tích đất lấn, chiếm không còn thuộc hành lang bảo vệ an toàn công trình công cộng; không thuộc chỉ giới xây dựng đường giao thông; không có mục đích sử dụng cho trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp và công trình công cộng khác thì người đang sử dụng đất được xem xét cấp sổ đỏ và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
Trường hợp thứ 2 là hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trước ngày 1/7/2014 do lấn đất, chiếm đất có nguồn gốc nông, lâm trường đã được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất cho các đối tượng qua các thời kỳ.
Đầu tiên là đối với trường hợp đang sử dụng diện tích đất lấn, chiếm thuộc quy hoạch lâm nghiệp đối với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ thì UBND cấp tỉnh chỉ đạo thu hồi đất đã lấn, chiếm để giao cho Ban quản lý rừng quản lý, sử dụng đất.
Người đang sử dụng đất lấn, chiếm được Ban quản lý rừng xem xét khoán bảo vệ, phát triển rừng theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp. Trường hợp không có Ban quản lý rừng thì người đang sử dụng đất lấn, chiếm được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích bảo vệ, phát triển rừng phòng hộ.
(Ảnh minh hoạ)
Hai trường hợp trên được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất.
Thứ 2 là đối với trường hợp lấn đất, chiếm đất và nay đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp hoặc làm nhà ở từ trước ngày 1/7/2014, không thuộc quy hoạch lâm nghiệp đối với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, không thuộc quy hoạch sử dụng đất cho mục đích xây dựng công trình hạ tầng công cộng thì được xem xét cấp sổ đỏ và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
Trường hợp 3 là hộ gia đình, cá nhân sử dụng do lấn đất, chiếm đất không thuộc các trường hợp quy định trên và trường hợp sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất thì người đang sử dụng đất ổn định, phù hợp với các quy định về quy hoạch thì được xem xét cấp sổ đỏ và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính.
Trường hợp 4 là hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp do tự khai hoang, không có tranh chấp thì được Nhà nước cấp sổ đỏ theo hạn mức giao đất nông nghiệp do UBND cấp tỉnh quy định; nếu vượt hạn mức do UBND quy định thì diện tích vượt hạn mức phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước.
T.Hà (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)