Một số ngành tại trường cao đẳng ở TP.HCM đang đối mặt với tình trạng... vắng thí sinh, dù nhu cầu nhân lực thực tế rất lớn
Tại Trường CĐ Lý Tự Trọng, tiến sĩ Đinh Văn Đệ, quyền Hiệu trưởng cho biết trường đã đạt hơn 50% chỉ tiêu tuyển sinh bậc CĐ, nhưng nhiều ngành như công nghệ may veston, quản lý xây dựng, truyền thông mạng máy tính, sửa chữa máy tàu thủy… vẫn vắng thí sinh. Đáng chú ý, riêng ngành công nghệ may và may veston dù được doanh nghiệp đặt hàng, cam kết tuyển dụng sau tốt nghiệp, số lượng đăng ký vẫn rất ít.
Tình trạng tương tự xuất hiện ở CĐ nghề Hoa Sen, khi các ngành tiếng Anh, quản trị nhà hàng, khách sạn, kế toán doanh nghiệp gần như “trắng thí sinh”. Trong khi đó, CĐ Kỹ thuật và Du lịch Sài Gòn lại ghi nhận sự chênh lệch: ngành ô tô, du lịch, CNTT hút người học, còn kế toán và quản trị kinh doanh khó tuyển do tác động từ trí tuệ nhân tạo.
Theo thạc sĩ Lâm Văn Quản, Chủ tịch Hội Giáo dục nghề nghiệp TP.HCM, đây là nghịch lý đáng lo ngại, phản ánh sự lệch hướng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia.
Nhiều ngành cần nhân lực nhưng thí sinh không đăng ký học (Ảnh minh họa).
Tại sao nhiều ngành nghề ‘khát’ nhân lực nhưng thí sinh vẫn thờ ơ?
Theo thạc sĩ Lâm Văn Quản, tình trạng “ngành cần - người không học” bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, có thể chia thành 5 nhóm lớn.
Hệ thống hướng nghiệp yếu và thiếu công cụ khoa học
Hướng nghiệp trong nhà trường hiện mới dừng ở mức giới thiệu trường, phát tờ rơi hay tổ chức ngày hội tuyển sinh. Trong khi đó, điều học sinh cần là các công cụ đánh giá năng lực, trắc nghiệm sở trường, trải nghiệm ngành nghề thực tế. “Khi hướng nghiệp không đúng, phân luồng chắc chắn sai”, thạc sĩ Quản nói.
Truyền thông thiếu chiều sâu
Truyền thông xã hội vẫn chủ yếu tôn vinh “thủ khoa ĐH” thay vì những người học nghề thành công. Hình ảnh về trường nghề vì thế thiếu hấp dẫn, chưa chạm tới thế hệ Gen Z vốn nhạy bén với hình ảnh số, video ngắn, TikTok hay YouTube.
Tâm lý xã hội "sính bằng cấp"
Trong mắt nhiều phụ huynh và học sinh, ĐH vẫn là con đường để thành công, còn học nghề chỉ là lựa chọn “thứ yếu”. Tâm lý này càng nặng nề khi xuất hiện xu hướng chọn ngành “việc nhẹ, lương cao” như quản trị kinh doanh, ngân hàng, tài chính, mà không gắn với năng lực bản thân hoặc nhu cầu thị trường.
Sự thiếu công bằng trong chính sách giáo dục
Nhiều năm qua, ngân sách, học bổng, cơ chế vay vốn… chủ yếu dồn về giáo dục ĐH. Giáo dục nghề nghiệp bị bỏ lại phía sau, vừa ít nguồn lực, vừa thiếu chính sách khuyến khích người học. Thêm vào đó, việc không siết chặt chuẩn đầu vào ĐH khiến cho phân luồng sau THPT bị “vỡ cấu trúc”: học sinh dù học yếu vẫn vào ĐH, trong khi thị trường lao động cần kỹ năng lại không có người học nghề.
Thiếu thông tin thị trường lao động chính xác
Hiện nay, học sinh và phụ huynh gần như không có dữ liệu chính thống để biết ngành nào đang cần nhân lực, lương trung bình bao nhiêu, cơ hội phát triển ra sao. Quyết định chọn ngành vì thế mang tính mù mờ, dễ chạy theo số đông hoặc truyền miệng.
(Ảnh minh họa)
Vậy phải làm sao?
Theo thạc sĩ Lâm Văn Quản, để tháo gỡ nghịch lý này, các trường nghề và hệ thống giáo dục cần có những bước đi mạnh mẽ và đồng bộ hơn.
Ở cấp trường, cần thay đổi cách tiếp cận tuyển sinh. Thay vì chỉ “tuyển sinh”, các trường phải “định hướng nghề nghiệp” cho học sinh từ sớm: tổ chức trải nghiệm ngành nghề ngay tại phổ thông, mời cựu sinh viên thành công về chia sẻ, kết nối chặt chẽ với phụ huynh.
Đào tạo gắn chặt với doanh nghiệp. Các trường cần tăng cường mô hình đào tạo kép, học tại trường kết hợp làm tại doanh nghiệp, có hợp đồng 3 bên để cam kết việc làm. Việc sinh viên ra trường có việc làm rõ ràng sẽ là bảo chứng tốt nhất để thu hút thí sinh.
Đầu tư cho truyền thông số. Các trường nghề cần hiện diện nhiều hơn trên nền tảng giới trẻ đang sử dụng: video ngắn, podcast nghề nghiệp, phỏng vấn những tấm gương học nghề thành công. Hình ảnh trường nghề hiện đại, năng động, “có tương lai” phải được xây dựng bài bản.
Ở cấp chính sách, Nhà nước cần hành động mạnh mẽ hơn. Trước hết, cần xây dựng một hệ thống dữ liệu thị trường lao động quốc gia công khai và minh bạch, để học sinh và phụ huynh có căn cứ lựa chọn ngành nghề. Đồng thời, chương trình hướng nghiệp phải được chuẩn hóa và đưa vào chính khóa từ lớp 8, với công cụ khoa học và đội ngũ chuyên gia được đào tạo bài bản.
Bên cạnh đó, cần luật hóa cơ chế liên thông – học suốt đời, để người học nghề có thể tiếp tục học lên ĐH nếu đủ năng lực. Ngân sách cho giáo dục nghề nghiệp cũng phải được tăng cường, đi kèm chính sách học bổng và hỗ trợ học phí cho những ngành xã hội đang rất cần nhưng ít hấp dẫn.
T.San (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)