Thời gian ghi trên que lịch tre
Lịch tre, hay còn gọi là lịch Đoi trong cộng đồng người Mường, là sáng tạo độc đáo đã được lưu truyền qua nhiều đời và được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Trong bộ sưu tập của ông Bùi Thanh Bình, có 5 bộ lịch tre cổ nguyên bản, hiện được trưng bày trang trọng tại Bảo tàng Di sản văn hóa Mường do ông sáng lập. Cùng với nhiều hiện vật quý, lịch tre được xem như minh chứng sống động về tri thức và văn hóa của người Mường.
Ông Bình chia sẻ, ông không coi đây đơn thuần là hiện vật, mà là “ký ức sống”, cách người Mường nhìn bầu trời, dự đoán ngày mai. Những thẻ tre đã ngả màu thời gian, khắc chi chít ký tự cổ, theo ông, chính là linh hồn dân tộc, vượt lên trên giá trị của một công cụ tính ngày tháng.
Khác với lịch Tây tính theo mặt trời, lịch tre gắn liền với chu kỳ vận động của mặt trăng và sao Đoi (chòm sao tua rua) - chòm sao xuất hiện trên bầu trời đêm từ tháng 7 âm lịch, báo hiệu mùa thu hoạch, cũng như thời điểm chuyển mùa.
Bộ lịch tre phiên bản tái hiện được ông Bình trưng bày tại khuôn viên bảo tàng Di sản văn hóa Mường.
Mỗi bộ lịch tre gồm 12 thẻ tre mỏng, dài khoảng 20-30cm, khắc các ký hiệu tượng trưng cho 30 ngày trong tháng.
Tháng được chia ba tuần gồm tuần cây (ngày đầu tháng, trăng mọc), tuần lồng (giữa tháng, trăng tròn) và tuần cối (cuối tháng, trăng tàn).
Các ký hiệu trên lịch gồm vạch ngắn, dài, dấu chấm, chữ V, gạch chéo...
Những ký hiệu này chỉ có những người tinh thông mới đọc được. Một chấm là ngày tiểu hao, hai chấm là đại hao, chữ V là ngày “cá” thích hợp đánh bắt; mũi tên là ngày mưa gió; gạch chéo là ngày “xích khẩu” dễ xảy ra cãi cọ, xung đột...
"Một tháng 30 ngày, tính theo tuần trăng. Cứ thế mà khắc trên thẻ tre. Người Mường không cần lịch giấy, không cần điện thoại, chỉ cần nhìn trăng và nhìn lên các thẻ tre được khắc các ký tự này là biết phải làm gì", ông Bình lý giải thêm.
Lịch tre ai được dùng?
Điểm đặc biệt của lịch tre Mường là không dành cho số đông. Lịch chỉ truyền lại cho tầng lớp thầy mo, thấy tlượng, thầy mỡi là những người giữ “phần âm”, phần linh hồn trong cộng đồng Mường.
Họ là những người được chỉ dạy, nắm và hiểu được những “mật mã” thời gian, có khả năng chiêm tinh, dự đoán thời tiết, định đoán ngày lành tháng tốt...
Theo nghệ nhân mo Mường Bùi Văn Minh ở xóm Mận Bùi, xã Thượng Cốc thì xưa kia mỗi dòng họ hay một làng có một người được giao giữ lịch để xem ngày cho cả bản làng.
Theo ông Bùi Văn Bình, lịch tre được người Mường sáng tạo từ “đời hơ” (xa xưa) và đồng hành với cuộc sống của cộng đồng Mường trong hàng nghìn năm qua.
Người được chọn thường là thầy mo, thầy mỡi hoặc thầy tlượng. Xem lịch tre phải biết ngẩng đầu nhìn sao Đoi, cúi đầu đọc vạch tre, rồi kết hợp cả kinh nghiệm, sự hiểu biết uyên thâm về tri thức địa lý, thiên văn...
Những điều này, không có sách nào dạy. Tất cả đều được học, truyền miệng từ người đi trước cho người đi sau, rồi tự mình cảm.
Đối với lịch Đoi của người Mường, người ngoài nhìn vào chỉ thấy mấy cái vạch vô nghĩa, nhưng với thầy mo, thầy mỡi, thầy tlượng thì đó là cả một hệ tri thức cổ truyền.
Với người Mường, lịch tre không chỉ dùng để tính toán thời vụ mà nó còn gắn chặt với vòng đời một con người.
Từ cưới xin, ma chay, dựng nhà, cầu mùa... Ngày đẹp hay xấu không phụ thuộc vào lịch âm hay dương, mà cũng theo “lịch trời”.
Đặc biệt, do lịch tre lệch khoảng 15 ngày so với lịch âm nên người Mường ăn Tết Đoi riêng, thường sau Tết Nguyên đán nửa tháng.
Ngày nay, lịch tre đang dần trở thành ký ức. Phần lớn người trẻ ở các vùng Mường không mấy ai còn biết khái niệm lịch Đoi là gì.
Sự thay đổi của thời tiết, biến đổi khí hậu và thay đổi chu kỳ thiên văn khiến các dự đoán không còn chính xác như xưa nên càng khiến người ta xa rời bộ lịch cổ này.
Lịch tre với những ký tự đặc biệt gắn với vòng đời người ở vùng đất Mường.
Nhưng với những người như ông Bình và những thầy mo trong cộng đồng Mường thì với họ vẫn luôn tâm niệm “giữ được lịch Đoi là giữ được cái hồn xứ Mường".
Trước nguy cơ thất truyền, cấp ủy, chính quyền địa phương đã nỗ lực phục hồi và bảo tồn. Năm 2022, tri thức dân gian về lịch tre (lịch Đoi) đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Sau khi được công nhận, một số bộ lịch quý đã được đưa vào trưng bày tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Lịch tre được người Mường sáng tạo trên một hệ tri thức cổ truyền được đúc kết từ ngàn đời.
Đặc biệt, tại Bảo tàng Di sản văn hóa Mường do nghệ nhân Bùi Thanh Bình sáng lập còn lưu giữ được 5 bộ lịch tre cổ có tuổi đời lên tới cả trăm năm.
Tại đây, không chỉ trưng bày, ông Bình còn tổ chức các buổi giới thiệu, tái hiện nghi lễ xem lịch, mời các thầy mo còn giữ nghề đến chia sẻ với du khách. Nhờ đó, những thẻ tre từ trong im lặng đã “cất tiếng, kể chuyện”.
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, lịch tre là minh chứng sống động cho tư duy thiên văn nông nghiệp cổ truyền, phản ánh cách người Mường xưa lý giải thế giới.
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, lịch tre là minh chứng sống động cho tư duy thiên văn nông nghiệp cổ truyền của người Mường.
Dù có nhiều điểm tương đồng với lịch âm, nhưng lịch Đoi mang bản sắc riêng, đậm tính quan sát và kinh nghiệm của cư dân bản địa.
Đó không chỉ là công cụ tính ngày mà là cách con người sống thuận theo thiên nhiên, điều chỉnh hành vi theo nhịp trăng sao. Hơn nữa, nó còn chứa đựng tư duy hệ thống, nhân sinh quan, triết lý sống hài hòa với đất trời của người Mường.
Trong không gian bảo tàng của mình, nghệ nhân Bùi Thanh Bình vẫn thường bảo: Lịch tre không chết vì thời gian trong đó vẫn sống.
Chỉ cần còn một người hiểu thì lịch Mường còn chưa mất. Những nét khắc như dấu “mật mã” kia vẫn âm thầm vận hành bằng nhịp đập của ký ức, trăng trời và lòng người.
Dù không còn được mấy ai dùng, nhưng lịch tre vẫn nhắc ta nhớ về một thời gian không chỉ để đo mà là để sống...
A.Dương (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)