Thẻ ngân hàng
Kể từ khi chiếc thẻ ATM lần đầu xuất hiện vào năm 2002 đến nay, toàn thị trường đã có hơn 96 triệu thẻ, với nhiều hình thức, công dụng khác nhau.
Theo số liệu từ Vụ Thanh toán Ngân hàng Nhà nước, đến hết tháng 9/2015, toàn thị trường có 96,26 triệu thẻ ngân hàng (gồm cả thẻ nội địa và quốc tế). Kể từ năm 2002 - khi chiếc thẻ ghi nợ nội địa đầu tiên ra đời đến nay, thị trường Việt Nam đã có hầu hết các loại thẻ đa dạng.
Ví dụ, để đối phó với tác động của tài chính Internet, các ngân hàng thương mại lớn đã tung ra các ứng dụng ngân hàng di động, nơi cư dân có thể hoàn thành các chức năng như chuyển khoản, thanh toán cuộc sống và mua sắm trên ứng dụng ngân hàng di động. Không thể phủ nhận thẻ ngân hàng mang đến sự tiện lợi cho cuộc sống của chúng ta về mọi mặt, nhưng đằng sau sự tiện lợi đó là hàng loạt vấn đề với thẻ ngân hàng.
Đặc biệt khi thẻ ngân hàng của chủ thẻ bị mất sẽ rất dễ bị đánh cắp thẻ ngân hàng. Vì thẻ ngân hàng hiện nay thường được sử dụng chủ yếu là thẻ sọc từ nên tính bảo mật và bảo mật của thẻ sọc từ kém, thông tin trên dải từ có thể dễ dàng sao chép và giá thành của thẻ trắng cũng rất thấp. Vì vậy, bọn tội phạm lợi dụng những khiếm khuyết kỹ thuật này để làm thẻ giả không chỉ trong thời gian ngắn mà còn với chi phí rất thấp.
Về mặt kỹ thuật, việc giải quyết vấn đề này không khó. Ngay từ năm 1999, Europay (Châu Âu), MasterCard (MasterCard) và Visa (Visa) ba tổ chức thẻ ngân hàng quốc tế lớn đã đồng tài trợ thành lập tổ chức EMVCo. Và vào năm 2000, "tiêu chuẩn EMV" đã được xây dựng, tức là tiêu chuẩn kỹ thuật chuyển thẻ ngân hàng từ thẻ sọc từ sang thẻ chip, trở thành tiêu chuẩn khung quốc tế.
Thẻ chip hay còn gọi là thẻ IC sử dụng chip mã hóa tích hợp làm phương tiện. Nó không chỉ có tính bảo mật cao, khó sao chép mà còn có dung lượng lớn, có thể đáp ứng nhu cầu lưu trữ chứng chỉ số và thông tin nhận dạng. Nhiều nước đã hoàn thành quá trình chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip và đạt kết quả tốt.
Sổ tiết kiệm
Trên thực tế, sổ tiết kiệm là một loại chứng chỉ tín dụng xuất hiện từ rất sớm và có thể bắt nguồn từ thời nhà Đường. Sau khi thương nhân gửi tiền vào ngân hàng vào thời điểm đó, ngân hàng đã cấp các chứng chỉ liên quan và trả lãi để đổi lại số tiền gửi. Khi người bán đến ngân hàng để rút tiền, anh ta cần xuất trình giấy chứng nhận do ngân hàng cấp và trả lãi tương ứng. Vì vậy, xét từ góc độ này, mô hình này về cơ bản giống với sổ tiết kiệm hiện nay.
“Sổ tiết kiệm” ra đời từ thời nhà Đường đã tồn tại hàng nghìn năm và vẫn được người dân Trung Quốc sử dụng cho đến ngày nay. Chỉ là với sự phát triển của thời đại, số lượng sổ tiết kiệm được giới trẻ sử dụng ngày càng giảm nhưng đối với hầu hết người cao tuổi, sổ tiết kiệm cũng là phương tiện gửi tiết kiệm đáng tin cậy nhất của họ.
Vì sổ tiết kiệm là một loại chứng chỉ tín dụng để người gửi tiền gửi vào ngân hàng nên hệ thống sổ tiết kiệm được các nước triển khai cũng khác nhau. Một số quốc gia có kích thước tương tự như hộ chiếu, trong khi những quốc gia khác có kích thước tương tự như tấm séc.
Vậy, sự khác biệt giữa thẻ ngân hàng và sổ tiết kiệm là gì?
Hiện nay, thẻ ngân hàng chủ yếu có hai loại: thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng, và theo chức năng khác nhau, chúng cũng có thể được chia thành thẻ chuyển khoản (bao gồm thẻ tiết kiệm), thẻ đặc biệt và thẻ lưu trữ giá trị. Sự khác biệt giữa thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng là thẻ ghi nợ không thể được sử dụng để thấu chi tín dụng, nhưng nó có thể hoàn tất việc gửi tiền, chuyển khoản,..., trong khi thẻ tín dụng thì hoàn toàn ngược lại. Trong cuộc sống, nhiều người sử dụng thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ cùng nhau.
Sự khác biệt chính giữa thẻ ngân hàng và sổ tiết kiệm là trước tiên, sổ tiết kiệm không thể tự phục vụ. Ngày nay, sổ tiết kiệm không thể được sử dụng để tự phục vụ tại các máy ATM như thẻ tín dụng, không cần gửi và rút tiền, không chuyển khoản hoặc tiêu dùng hàng ngày.
Thứ hai, sổ tiết kiệm không có chức năng thấu chi. Thẻ tín dụng có chức năng thấu chi (tất nhiên là không bao gồm thấu chi độc hại), có thể làm biến đổi mối quan hệ giữa quyền của chủ nợ và khoản nợ.
Thứ ba, hệ số rủi ro của tiền trong sổ tiết kiệm cao hơn thẻ ngân hàng. Việc đăng ký làm sổ tiết kiệm tương đối đơn giản và không mất phí còn thẻ ngân hàng thường yêu cầu phí hàng năm. Chúng chỉ có thể được sử dụng bởi chính họ và không được phép sử dụng gian lận.
Thứ tư, sổ tiết kiệm còn có những ưu điểm riêng. Ví dụ: ứng dụng thuận tiện và đơn giản, thu nhập và chi tiêu có thể được phản ánh trực tiếp vào sổ tiết kiệm và không mất phí.
Vậy khi đến ngân hàng gửi tiền nên chọn thẻ ngân hàng hay sổ tiết kiệm? Đứng trước vấn đề này chúng ta cần xem xét từ hai góc độ
Đầu tiên, xét về mặt tiện lợi, thẻ ngân hàng rõ ràng tiện lợi hơn sổ tiết kiệm. Đây là lý do tại sao nhiều người trong chúng ta lựa chọn làm thẻ ngân hàng. Rõ ràng, chúng ta phải đến ngân hàng để rút tiền mặt vào sổ tiết kiệm trước khi có thể hoàn tất công việc thanh toán và chuyển khoản liên quan. Ở góc độ này, sự tiện lợi của thẻ ngân hàng chắc chắn cao hơn sổ tiết kiệm.
Xét về khía cạnh bảo mật, độ bảo mật của thẻ ngân hàng thấp hơn nhiều so với sổ tiết kiệm. Do công nghệ thẻ ngân hàng còn non nớt hiện nay nên thẻ ngân hàng của người dân thường xuyên bị đánh cắp. Còn đối với sổ tiết kiệm, dù bị mất sổ tiết kiệm thì số tiền trong sổ tiết kiệm cũng không bị ảnh hưởng. Điều này là do theo quy định của các ngân hàng thương mại lớn, người dân phải xuất trình chứng minh nhân dân khi rút tiền bằng sổ tiết kiệm và ngân hàng có thể xác minh danh tính trước khi hoàn tất việc rút tiền gửi. Đây là lý do tại sao, bất chấp sự phát triển nhanh chóng của tài chính Internet trong những năm gần đây, hầu hết người cao tuổi vẫn chọn sổ tiết kiệm.
Dương Huyền (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)