Sự sống là do cha mẹ ban tặng, con người không thể tự mình làm chủ được nhưng con người có thể ảnh hưởng đến cái chết của chính mình ở một mức độ nào đó.
Cái gọi là “cận kề cái chết” ám chỉ trạng thái giữa sự sống và cái chết, giống như câu nói cổ xưa là đứng trước cửa địa ngục nhưng chưa bước vào đó. Lúc này, các thành viên trong gia đình sẽ kêu gọi “linh hồn” nhằm mang lại sự sống. Ngày nay, nhiều nhà khoa học quan tâm đến “trạng thái cận kề cái chết” của con người. Một mặt, với sự tiến bộ của công nghệ y tế, ngày càng có nhiều người được “cứu” khỏi bờ vực của cái chết và có thể mô tả một số lượng lớn trải nghiệm cận kề cái chết, mặt khác, tính thời sự do cái chết mang lại; cũng làm dấy lên cuộc thảo luận.
Chúng ta định nghĩa cái chết như thế nào? Người ta thường tin rằng dấu hiệu của cái chết ở con người là ngừng tim và ngừng thở. Nhưng nghiên cứu mới cho thấy ngay cả khi tim con người ngừng đập, não vẫn tiếp tục hoạt động. Điều này có nghĩa là, trong những trường hợp nhất định, một người có thể nhận ra rằng mình đã chết. Nhưng chết não là trạng thái trong đó tất cả các chức năng của não, bao gồm cả chức năng của thân não, bị chấm dứt không thể phục hồi. Cần phải làm rõ rằng chết não không giống như trạng thái thực vật. Người sống thực vật vẫn giữ được các chức năng của thân não và có khả năng tự thở, nhịp tim và biểu hiện các phản ứng của thân não.
Trong những thập kỷ gần đây, một số lượng lớn kết quả nghiên cứu khoa học về trải nghiệm cận tử đã được công bố trên các tạp chí học thuật như tạp chí y khoa The Lancet, gây ra nhiều cuộc thảo luận rộng rãi. Ví dụ, Giáo sư Stuart Hameroff, người đứng đầu Trung tâm Nghiên cứu Ý thức tại Đại học Arizona, đã đề xuất “lý thuyết giảm thiểu mục tiêu được điều chỉnh”. Tuy nhiên, lý thuyết này vẫn chưa được công nhận rộng rãi và gây ra nhiều tranh cãi trong cộng đồng khoa học. Mặt khác, Paim van Lamaner thuộc Trung tâm Tim mạch của Bệnh viện Rijnstate ở Hà Lan và các đồng nghiệp đã thực hiện một nghiên cứu kéo dài 8 năm về trải nghiệm cận kề cái chết trên 334 người đã sống lại từ cõi chết. Kết quả cho thấy 62 người trong số họ báo cáo rằng họ đang ở trạng thái cận kề cái chết, nhận ra rằng mình đã chết ở các mức độ khác nhau và mô tả những trải nghiệm thú vị như rời khỏi cơ thể, du hành qua các đường hầm và giao tiếp với ánh sáng. Họ đề cập: "Tôi cảm thấy cơ thể mình bị chia làm hai. Một bên nằm trên giường, chỉ là một cái vỏ rỗng, bên còn lại lơ lửng trong không trung, đó là hình dáng cơ thể của tôi thông qua phân tích so sánh và kiểm tra thống kê nghiêm ngặt", Lamaner. Người ta phát hiện ra rằng trải nghiệm cận kề cái chết có liên quan đến trạng thái chết của sóng não và điện tâm đồ, nhưng không liên quan trực tiếp đến tác dụng của thuốc và yếu tố tâm lý của bệnh nhân. Tuy nhiên, tâm lý xã hội, trình độ học vấn, nghề nghiệp, hôn nhân, tính cách,… của người bệnh có thể ảnh hưởng đến nội dung của trải nghiệm cận tử.
Nhà sinh vật học Roland Seager tin rằng khi mọi người cận kề cái chết, não sẽ tiết ra quá nhiều chất hóa học, khiến người bệnh có những ảo giác kỳ lạ. Nhà tâm lý học Kenneth Rein chia “trải nghiệm cận tử” thành bốn giai đoạn, từ cực kỳ bình tĩnh đến hòa làm một với ánh sáng. Sau khi những người cận kề cái chết sống lại, hầu hết mọi người sẽ có những hiểu biết mới về cuộc sống, thậm chí thay đổi tính cách.
Tuy nhiên, các nhà khoa học không tin rằng những gì con người nhìn thấy khi sắp chết là có thật. Họ tin rằng đây có thể là cơ thể tiết ra một chất hóa học tương tự như heroin, khiến con người cảm thấy khoái cảm, bình tĩnh, ảo giác, v.v. chứ không phải là một trải nghiệm thực sự.
Lê Dương (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)