Chia sẻ với báo chí, bạn đọc Anh bày tỏ sự trăn trở khi với mức lương cơ bản 5-6 triệu đồng tại thành phố lớn, chị chỉ đủ chi trả cho hai bữa cơm chính và ăn sáng bằng mì gói. Chị cũng lo ngại rằng mỗi lần tăng lương cơ bản, phần tăng thêm thường không đủ bù đắp cho trượt giá, và đề xuất chuyển đổi sang khái niệm "lương đủ sống tối thiểu" (ước tính khoảng 10,5 triệu đồng/tháng).
PGS.TS Nguyễn Đức Lộc, viện trưởng Viện Nghiên cứu đời sống xã hội, cho rằng Việt Nam cần hướng tới một mô hình tiền lương linh hoạt hơn, với cơ chế phân cấp mạnh mẽ cho địa phương và chu kỳ điều chỉnh từ 12-18 tháng theo thông lệ quốc tế. Ông cũng chỉ ra hai mô hình tiếp cận phổ biến trên thế giới:
Làm sao để người lao động đủ sống bằng lương? (Ảnh minh hoạ)
- Mô hình Nhà nước phúc lợi (Bắc Âu): Người lao động được hưởng hệ thống an sinh xã hội toàn diện từ giáo dục miễn phí, y tế công chất lượng cao đến hỗ trợ nhà ở. Đổi lại, người dân đóng thuế ở mức cao để nhà nước có nguồn lực tái phân phối qua hệ thống phúc lợi công. Lương có thể không quá cao, nhưng vẫn "đủ sống" vì nhiều chi phí xã hội đã được nhà nước đảm bảo.
- Mô hình Thị trường phúc lợi (Mỹ): Vai trò của công đoàn trong đàm phán, thương lượng với người sử dụng lao động được đề cao. Mục tiêu là đảm bảo người lao động có thu nhập tốt, tự lo liệu các nhu cầu xã hội của họ thông qua cơ chế thị trường.
"Mỗi mô hình đều có những đánh đổi riêng", PGS.TS Nguyễn Đức Lộc nhấn mạnh. Nếu chọn mô hình nhà nước phúc lợi, chúng ta phải chấp nhận thuế cao nhưng đổi lại người lao động chỉ cần tập trung làm việc, doanh nghiệp tập trung sản xuất. Ngược lại, mô hình thị trường phúc lợi đòi hỏi một hệ thống công đoàn, nghiệp đoàn đủ mạnh để đấu tranh cho quyền lợi người lao động, đảm bảo họ có thu nhập đủ cao để tự lo tất cả các nhu cầu xã hội.
(Ảnh minh hoạ)
Ông Trương Văn Cẩm, phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, phân tích sự khác biệt giữa ba khái niệm: lương tối thiểu vùng, lương đủ sống và thu nhập thực nhận của người lao động. Ông cho biết lương tối thiểu vùng được nhà nước điều chỉnh phù hợp với đời sống thực tế, và doanh nghiệp không được trả thấp hơn mức này. Thu nhập thực tế của người lao động, bao gồm tất cả các khoản chi trả của doanh nghiệp, thường cao hơn lương tối thiểu vùng từ 30-50%.
"Đối với những doanh nghiệp làm ăn, kinh doanh tốt, họ trả cho người lao động mức thu nhập cao gấp đôi lương tối thiểu vùng", ông Cẩm cho biết. Ông cũng lưu ý rằng việc tăng lương tối thiểu vùng quá cao không chỉ gây áp lực cho doanh nghiệp mà còn gây áp lực cho cả người lao động, do các khoản đóng góp như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, phí công đoàn cũng sẽ tăng theo.
"Doanh nghiệp mong muốn thu nhập của người lao động càng cao càng tốt, nhưng trong bối cảnh hiện nay mức lương tối thiểu vùng nên kiểm soát tăng ở mức hợp lý", ông Cẩm khuyến nghị. Ông cũng lo ngại rằng nếu áp dụng khái niệm "lương đủ sống" thay cho lương tối thiểu vùng, doanh nghiệp và người lao động sẽ phải đóng bảo hiểm, phí ở mức rất cao, tương đương khoảng 32% thu nhập hằng tháng của người lao động.
(Ảnh minh hoạ)
Như vậy, bài toán "lương đủ sống" không chỉ đơn thuần là việc tăng lương. Nó đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện, cân bằng giữa các yếu tố:
- Linh hoạt trong chính sách tiền lương: Cần có cơ chế điều chỉnh tiền lương phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương.
- Xây dựng hệ thống an sinh xã hội vững chắc: Nhà nước cần đầu tư vào các dịch vụ công như giáo dục, y tế, nhà ở để giảm bớt gánh nặng chi phí cho người lao động.
- Tăng cường vai trò của công đoàn: Công đoàn cần chủ động tham gia vào quá trình đàm phán, thương lượng với người sử dụng lao động để bảo vệ quyền lợi của người lao động.
- Kiểm soát lạm phát: Đảm bảo phần tăng lương không bị "ăn mòn" bởi trượt giá.
Thu Hà (TH) (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)