Do có mối quan hệ mật thiết với quá trình tiến hóa của loài người, Kỷ băng hà Đệ tứ còn được gọi là kỷ Anthropocen, đặc biệt là kỷ băng hà bắt đầu cách đây 11.000 năm, đã khai sinh ra thứ quan trọng nhất đối với nhân loại trong 10.000 năm qua - nông nghiệp. Con người không chỉ thuần hóa cây trồng và thay đổi hoàn toàn chế độ ăn uống của chúng ta, mà còn tự thuần hóa, giải phóng mình khỏi áp lực của chọn lọc tự nhiên.
Đồng thời, nhiều loài thú thời tiền sử đã "ngã xuống", như voi ma mút, hổ răng kiếm, gấu hang,... Sự tuyệt chủng của chúng một mặt liên quan đến biến đổi khí hậu, mặt khác không thể thiếu bàn tay con người. Có thể nói, kể từ đó, số lượng người tăng lên tương ứng với sự suy giảm số lượng các loài động vật có vú và thậm chí là sự tuyệt chủng của các loài.
Đầu tiên chúng ta hãy xem xét một tập hợp dữ liệu. Khoảng 1 triệu năm trước, dân số thế giới khoảng 500.000 người, bao gồm tổ tiên của chúng ta, người Neanderthal và Homo erectus. Vào khoảng 12.000 năm trước, dân số thế giới có thể đã đạt đến 6 triệu người; vào năm 1 sau Công nguyên, dân số thế giới đã vượt quá 200 triệu người, tăng từ 30 đến 40 lần. Ngày nay, kết quả nhân khẩu học của Liên hợp quốc cho thấy vào năm 2100, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 11,2 tỷ.
Nhưng tương ứng, tình hình của các loài động vật không mấy lạc quan. Theo thống kê và suy đoán của các nhà nghiên cứu tại Đại học Gothenburg, 351 loài động vật có vú đã tuyệt chủng kể từ đầu kỷ Pleistocen muộn (126.000 năm trước), và đến năm 2100, 558 loài động vật có vú sẽ tuyệt chủng. Sự suy giảm số lượng loài chỉ là biểu hiện trực quan, điều nghiêm trọng hơn là do môi trường sống của nhiều loài bị tàn phá không thể phục hồi và giảm số lượng loài, nhiều loài động vật có vú sống ở châu Phi, châu Mỹ và Âu-Á sẽ gặp khủng hoảng sinh tồn.
Ví dụ, ở New Guinea và Australia, một loài động vật có vú có tên là thylacine đã từng sinh sống, khi con người đến Australia, phạm vi sống của thylacine nhỏ dần, đến cuối thế kỷ 19, người châu Âu đặt chân lên đất Australia. Săn bắn, ký sinh trùng và tình trạng thiếu lương thực đã làm giảm môi trường sống và số lượng thylacine một lần nữa cho đến khi chúng biến mất. Cuối cùng, chỉ có Tasmania mới có thể nhìn thấy chúng. Năm 1936, con thylacine (chó sói) cuối cùng chết trong vườn thú, con thylacine chỉ còn tồn tại trong các bức ảnh và danh sách các loài đã tuyệt chủng.
Một ví dụ khác là tê giác Sumatra ở Malaysia, loài này đã bị tuyên bố tuyệt chủng vào năm ngoái. Theo Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế, có ít hơn 80 con tê giác Sumatra hoang dã sống trong các khu rừng ở Sumatra và Borneo ở Indonesia. Dân số và kích thước đã khiến chúng đi vào đường cùng. Hai con tê giác Sumatra cuối cùng ở Malaysia lần lượt chết vào tháng 5 và tháng 11 năm 2019, cũng báo trước tình thế tiến thoái lưỡng nan mà loài này phải đối mặt.
Một thống kê khác trước đây của Quỹ Động vật Hoang dã Thế giới (WWF) cho thấy trong 44 năm từ 1970 đến 2014, số lượng quần thể động vật trên quy mô toàn cầu giảm gần 3/5, và tốc độ tuyệt chủng của các loài hiện nay đã đạt đến số lượng gấp 1.000 lần Trái đất.
Dữ liệu có thể nhắc nhở mọi người đối mặt với mức độ nghiêm trọng của vấn đề và nhận ra tác động tiêu cực của con người trên khắp trái đất. Chúng tôi không muốn thấy các dự đoán trở thành sự thật và chúng tôi không muốn ngày càng nhiều động vật chỉ tồn tại trong các bản ghi hình ảnh, 2100 năm không còn xa, và hy vọng rằng những gì chúng ta sẽ thấy 80 năm sau sẽ không phải là một bi kịch.
Vivian (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)