Vậy tại sao bạn lại bị polyp trong ruột? Nhóm nguy cơ cao mắc bệnh polyp đường ruột là ai?
Polyp ruột là gì?
Polyp đại trực tràng (ruột) thực chất là những khối thịt mọc trên niêm mạc ruột. Chúng chủ yếu là các polyp tăng sản, polyp viêm và polyp tuyến.
1. Polyp tăng sản
Nó nhỏ, phát triển ở gần cuối đại tràng và không phát triển thành ung thư.
2. Polyp viêm
Chúng hầu như không ác tính và một số polyp có thể tự biến mất sau khi kích thích viêm biến mất, tuy nhiên, kích thích viêm lâu dài cũng có thể phát triển thành u tuyến.
3. Polyp tuyến
Tỷ lệ mắc bệnh rất cao và hầu hết mọi người đều có thể mắc bệnh. Những người nghĩ rằng họ không mắc bệnh có thể chỉ không biết vì họ chưa kiểm tra.
Khả năng chuyển đổi ác tính là cao và đây là một tổn thương tiền ung thư. Tuy nhiên, quá trình tiến triển từ u tuyến sang ung thư mất khoảng 10 đến 15 năm. Việc kiểm tra thường xuyên có thể ngăn ngừa nó trở thành ung thư.
Polyp tuyến có thể được chia cụ thể thành: u tuyến hình ống, u tuyến ống nhung mao, u tuyến nhung mao, v.v. Nói chung, polyp càng lớn và càng nhiều nhung mao thì khả năng mắc ung thư càng cao.
Tỷ lệ mắc và nguy cơ ác tính của các loại polyp đại trực tràng
Nguyên nhân gây ra polyp ruột là gì?
Mặc dù có nhiều nguyên nhân gây ra polyp ruột nhưng đối với hầu hết bệnh nhân mắc polyp đại trực tràng, chế độ ăn uống kém và lối sống ít vận động, ít vận động là những nguyên nhân chính gây ra polyp ruột.
Các lý do phổ biến khác bao gồm:
1. Tuổi
Tỷ lệ polyp đại trực tràng tăng theo tuổi. Đánh giá theo độ tuổi khởi phát ung thư ruột, nguy cơ ung thư ruột tăng nhanh sau tuổi 40, vì vậy nhiều người có thể đã mắc polyp ở tuổi 30.
2. Phôi thai bất thường
Bệnh polyp ở trẻ vị thành niên chủ yếu là u mô thừa, có thể liên quan đến sự phát triển phôi thai bất thường.
3. Bất thường về di truyền
Sự xuất hiện của polyp gia đình có thể liên quan đến sự mất chức năng và thiếu hụt gen ức chế khối u allelic có tên là APC (adenomatous polyposis coli) ở nhánh dài của cặp nhiễm sắc thể thứ năm. Trong điều kiện bình thường, alen này cần hoạt động đồng thời để ức chế sự phát triển của khối u. Khi gen này bị thiếu hoặc bị đột biến, tác dụng ức chế đối với khối u sẽ biến mất, dẫn đến bệnh polyp tuyến đại trực tràng và ung thư.
4. Yếu tố di truyền
Khoảng 10% bệnh nhân ung thư đại trực tràng có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư. Tương tự, khi một thành viên trong gia đình có polyp tuyến thì khả năng các thành viên khác cũng phát triển polyp đại trực tràng tăng lên đáng kể, đặc biệt khi polyp gia đình có tính chất di truyền rõ ràng từ gia đình.
5. Rối loạn chuyển hóa mật
Ở những bệnh nhân bị loét dạ dày tá tràng trải qua phẫu thuật cắt dạ dày và cắt túi mật, hướng dòng chảy và thời gian thải của mật thay đổi, hàm lượng axit mật trong ruột già tăng lên, có thể gây ra polyp.
6. Bệnh viêm đường ruột
Các tổn thương viêm mãn tính của niêm mạc đại tràng là nguyên nhân chính gây ra polyp viêm. Chúng thường gặp nhất ở viêm loét đại tràng mãn tính, bệnh Crohn, bệnh lỵ amip, bệnh sán máng đường ruột và bệnh lao đường ruột.
7. Yếu tố dinh dưỡng
Những người ăn chế độ ăn nhiều chất béo, giàu protein, ít chất xơ trong thời gian dài có tỷ lệ mắc polyp đại trực tràng cao hơn đáng kể. Hút thuốc, uống rượu và polyp tuyến cũng có liên quan chặt chẽ với nhau.
Ai có nhiều khả năng bị polyp đường ruột?
Một số yếu tố nguy cơ cao dựa trên bằng chứng, bao gồm:
- Thừa cân hoặc béo phì
- Trên 40 tuổi
- Hút thuốc, uống rượu
- Đã từng bị polyp đại tràng hoặc ung thư ruột kết trước đó
- Mắc bệnh viêm ruột, chẳng hạn như viêm loét đại tràng hoặc bệnh Crohn
- Bị bệnh tiểu đường loại 2 được kiểm soát kém
Làm gì khi phát hiện polyp ruột?
Các bác sĩ thường quyết định kế hoạch điều trị dựa trên kích thước, số lượng, biến chứng và tính chất bệnh lý của polyp ruột:
1. Các polyp nhỏ thường được cắt bỏ trong quá trình nội soi và gửi đi kiểm tra bệnh lý.
2. Các u tuyến có đường kính >3cm, đặc biệt là các u tuyến nhung mao cần được phẫu thuật cắt bỏ: cắt bỏ cục bộ qua đường hậu môn phía dưới trào ngược phúc mạc, và cắt bỏ nội soi hoặc nội soi đối với những u ở trên trào ngược phúc mạc.
3. Nếu u tuyến trở thành ung thư và xâm nhập vào niêm mạc cơ hoặc xâm nhập vào lớp dưới niêm mạc khi kiểm tra bệnh lý thì đó là ung thư xâm lấn và cần được điều trị theo nguyên tắc điều trị ung thư đại trực tràng. Nếu u tuyến ác tính chưa xâm lấn vào niêm mạc cơ, chưa xâm lấn các mạch máu nhỏ và bạch huyết, có mức độ biệt hóa tốt và không còn bờ cắt bỏ thì không cần phẫu thuật sau khi cắt bỏ mà phải theo dõi chặt chẽ.
4. Polyp viêm chủ yếu được sử dụng để điều trị các bệnh đường ruột nguyên phát. Sau khi kích thích viêm biến mất, polyp có thể tự biến mất; các triệu chứng của polyp tăng sản không rõ ràng và không cần điều trị đặc biệt.
Làm thế nào để ngăn ngừa polyp tái phát?
Giáo sư Wang Guiqi, Giám đốc Khoa Nội soi tại Bệnh viện Ung thư thuộc Viện Khoa học Y tế Trung Quốc, nhắc nhở:
Ung thư đại trực tràng là một căn bệnh về lối sống và một căn bệnh ở đầu lưỡi. Nó có liên quan chặt chẽ đến thực phẩm chúng ta ăn. Một lượng lớn thực phẩm béo, thực phẩm thịt, lượng protein cao và năng lượng cao sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Để tránh tái phát:
“Đầu tiên, chúng ta cần giảm lượng thức ăn như vậy và tăng lượng trái cây và rau quả một cách thích hợp.
Thứ hai, béo phì cũng là yếu tố nguy cơ gây ung thư đại trực tràng nên chúng ta cần giảm cân.
Thứ ba, ung thư đại trực tràng là một khối u có tính di truyền cao. Ngay cả khi chúng ta chú ý đến lối sống và chế độ ăn uống, cơ sở cho sự phát triển của khối u có thể đã được hoàn thiện do gen của chính chúng ta, vì vậy chúng ta có thể phát triển các polyp, u tuyến tiến triển và thậm chí là ung thư đường ruột. Ung thư, kiểm tra thường xuyên là cách tốt nhất".
Minh Thanh (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)