Vào ngày 6/2, nhà sản xuất Phạm Hồng Hải Quân đã qua đời, hưởng dương 40 tuổi. Mẹ của Phạm Hồng Hải Quân cho biết anh bị tràn dịch màng phổi.
Theo kết quả nghiên cứu ở Mỹ, mỗi năm có 1,5 triệu người mắc bệnh. Các nguyên nhân dẫn đến tràn dịch ở phổi như: suy tim sung huyết chiếm 500.000 trường hợp, viêm phổi chiếm 300.000 trường hợp, thai nghén 200.000 trường hợp, tắc mạch phổi 150.000 trường hợp, xơ gan cổ trướng 50.000 trường hợp.
Ở các nước công nghiệp, người ta ước tính mỗi năm có 32/100.000 trường hợp mắc bệnh, nguyên nhân chủ yếu là do suy tim, các bệnh lý ác tính, viêm phổi hoặc tắc mạch phổi. Xấp xỉ 72% trường hợp bệnh nhân suy tim phát hiện có dịch trong phổi sau mổ tử thi, tràn dịch do viêm phổi chiếm từ 36-66% trường hợp bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện.
Những người dễ mắc bệnh tràn dịch màng phổi gồm: Người có bệnh lý về phổi như ung thư phổi; xẹp phổi; viêm phổi; thuyên tắc phổi (tắc động mạch phổi); lao phổi; di căn ung thư từ một cơ quan khác đến màng phổi.
Ngoài ra, những người có bệnh lý về tim, mạch như: suy tim; viêm màng ngoài tim co thắt; phẫu thuật bắc cầu nối động mạch vành; người bị suy giảm chức năng, suy giảm miễn dịch thận hư, suy thận; xơ gan cổ trướng; suy giáp, viêm khớp; nhiễm HIV; bệnh lý hệ thống; ký sinh trùng cũng dễ mắc bệnh.
Vậy tràn dịch màng phổi là gì?
Khoang màng phổi là một khoang ảo nằm giữa phổi và thành ngực (Giữa lá thành và lá tạng). Bình thường trong khoang màng phổi có một ít dịch (khoảng 10-15ml) có chức năng như hệ thống đệm giữa phổi và thành ngực, lượng dịch này gọi là dịch sinh lý trong khoang màng phổi.
Tràn dịch màng phổi là tình trạng lượng dịch trong khoang màng phổi nhiều hơn mức sinh lý. Lượng dịch ít, tăng có thể không gây triệu chứng khó chịu cho người bệnh hay chỉ khó thở nhẹ, tuy nhiên trường hợp tràn dịch nhiều gây nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.
Tràn dịch màng phổi có nhiều nguyên nhân gây ra và có thể tràn dịch là lành tính nhưng có không ít trường hợp tràn dịch màng phổi ác tính, tái lại nhiều lần có thể gây tử vong.
Nguyên nhân gây tràn dịch màng phổi được chia theo phân loại dịch:
Tràn dịch màng phổi do dịch thấm: được gây ra bởi sự kết hợp tăng áp lực thủy tĩnh và giảm áp lực keo huyết tương. Suy tim là nguyên nhân phổ biến nhất, theo sau là xơ gan với cổ trướng và do giảm albumin máu (thường là do hội chứng thận hư).
Tràn dịch màng phổi do dịch tiết: do các quá trình tại chỗ gây ra dẫn đến tăng tính thấm mao mạch, kết quả là xuất tiết dịch, protein, tế bào và các thành phần huyết thanh khác. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng này, phổ biến nhất là viêm phổi, ung thư, tắc mạch phổi, nhiễm virus, và lao.
Triệu chứng lâm sàng của tràn dịch màng phổi
- Đau ngực kiểu màng phổi, tương ứng với vị trí tổn thương.
- Khó thở khi dịch màng phổi số lượng nhiều chèn ép nhu mô phổi. Ho chủ yếu là ho khan, ho đờm khi kèm theo viêm phổi, áp xe phổi.
- Khám lâm sàng giai đoạn đầu có thể có tiếng cọ màng phổi, giai đoạn sau có hội chứng ba giảm rõ: rì rào phế nang giảm, rung thanh giảm, gõ đục.
- Các triệu chứng của căn nguyên như gầy sút cân, sốt, phù, đau khớp…
Chẩn đoán hình ảnh trong bệnh cảnh tràn dịch màng phổi
- X-quang ngực thẳng là thăm dò đầu tay, phát hiện được dịch màng phổi khi lượng dịch > 150ml tùy thuộc vào mức độ: tràn dịch lượng ít sẽ gây mờ góc sườn hoành; lượng trung bình tạo đường cong damoiseau, lượng nhiều gây mờ toàn bộ trường phổi.
- Siêu âm màng phổi đánh giá tình trạng dịch (ít, vừa, nhiều), tính chất (vách, đồng nhất), tổn thương nhu mô đi kèm. Đồng thời xác định vị trí cho chọc dò màng phổi.
- Cắt lớp vi tính lồng ngực không được chỉ định thường quy, có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn XQ trong phát hiện TDMP, đặc biệt trong trường hợp số lượng ít và khi trú, đồng thời phát hiện các tổn thương đi kèm khó phát hiện trên X quang ngực.
Chẩn đoán nguyên nhân gây tràn dịch màng phổi
- Chọc thăm dò dịch màng phổi: đánh giá màu sắc, mủ đục, mùi.
- Xét nghiệm dịch màng phổi: protein, rivalta, tế bào dịch chạy như công thức máu, nuôi cấy, tìm trực khuẩn lao, tế bào học dịch màng phổi. Một số nguyên nhân hiếm gặp như định lượng cholesterol, triglyceride, amylase, ký sinh trùng…
- Sinh thiết màng phổi: TDMP dịch tiết hoặc TDMP dịch máu.
- Các xét nghiệm khác phụ thuộc vào bện nguyên nghi ngờ như kháng thể kháng nhân, định lượng hormone tuyến giáp, siêu âm ổ bụng…
Điều trị tràn dịch màng phổi
- Điều trị theo nguyên nhân: Tràn mủ màng phổi, áp xe phổi, viêm phổi sử dụng kháng sinh đủ thời gian, lựa chọn kháng sinh theo kháng sinh đồ. Nếu lao thì điều trị theo phác đồ chống lao của Bộ Y tế. Ung thư có thể hóa trị, xạ trị. Suy tim, xơ gan, suy thận, suy dinh dưỡng cũng theo phác đồ từng bệnh cụ thể.
- Điều trị triệu chứng (giảm đau, thở oxy), vật lý trị liệu phục hồi chức năng hô hấp (tập thở, thổi bóng…)
- Tràn dịch màng phổi lượng nhiều, nhiễm trùng hoặc viêm đôi khi cần được dẫn lưu để giúp bạn cảm thấy dễ chịu hơn. Một số phương pháp điều trị tràn dịch màng phổi bao gồm: Chọc hút dịch màng phổi (Nếu tràn dịch nhiều, bác sĩ có thể chọc tháo bớt dịch màng phổi, nhiều hơn mức cần thiết làm xét nghiệm, mục đích để giảm bớt các triệu chứng của bạn. Đối với phương pháp này chỉ được chỉ định cho những bệnh nhân tràn dịch màng phổi lượng vừa) và Đặt ống dẫn lưu màng phổi (Đặt một ống thông dài qua da vào khoang màng phổi để lấy dịch ra. Ống dẫn này có thể để nhiều ngày tùy theo chỉ định của bác sĩ) hoặc Gây dính màng phổi (Một chất gây kích ứng (như talc hoặc doxycycline) sẽ được tiêm vào khoang màng phổi. Chất này làm viêm màng phổi và thành ngực, sau đó liên kết chặt chẽ với nhau khi chúng lành lại. Chọc tháo dịch hay đặt ống dẫn lưu màng phổi làm giảm nhanh các triệu chứng nhưng dịch thường tái phát ngay. Phương pháp này và có thể gây mất protein, dịch, điện giải, làm xấu thêm thể trạng của bệnh nhân. Do đó gây dính màng phổi là giải pháp điều trị không đặc hiệu tối ưu để ngăn ngừa dịch tái lập. Phương pháp này nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và kéo dài thời gian sống thêm cho bệnh nhân).
Tràn dịch màng phổi có nguy hiểm không?
Tràn dịch màng phổi có nguy hiểm hay không còn tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra tràn dịch màng phổi và mức độ tràn dịch. Nếu nguyên nhân do ung thư việc điều trị gặp phải nhiều khó khăn vì thường tái phát tràn dịch sau khi hút dịch màng phổi. Tràn dịch cấp tính nếu không được xử lý kịp thời có thể gây tử vong, do chèn ép phổi, giảm khả năng hô hấp, gây thiếu oxy.
Những trường hợp tràn dịch màng phổi ác tính thường tái đi tái lại nhiều lần dù đã được điều trị đúng cách. Tràn dịch màng phổi gây ảnh hưởng rất lớn đến hô hấp, thiếu oxy nuôi dưỡng cơ thể. Có thể để lại một số di chứng như: dày màng phổi, vôi hóa màng phổi. Các di chứng này ảnh hưởng tới khả năng hô hấp của người bệnh.
Việc phát hiện sớm bệnh giúp điều trị hiệu quả cao, nên khi có các dấu hiệu như khó thở tăng dân, đau ngực... người bệnh không nên chủ quan mà cần đến các cơ sở Y tế khám để chẩn đoán sớm bệnh.
Bên cạnh đó, một số biện pháp có thể giúp phòng tránh nguy cơ mắc bệnh như:
- Hạn chế làm việc, sinh hoạt ở nơi có môi trường ô nhiễm, cải thiện môi trường sống.
- Thực hiện chế độ ăn chín, uống sôi, tránh các thực phẩm sống chưa qua chế biến nhiệt.
- Cách ly, giữ khoảng cách an toàn hoặc dùng thuốc dự phòng khi tiếp xúc với bệnh nhân bị lao.
- Giữ vệ sinh răng miệng và vòm họng hàng ngày, điều trị triệt để viêm nhiễm đường hô hấp trên phòng tránh viêm nhiễm ở phổi.
- Bỏ thuốc hoặc hạn chế tiếp xúc với môi trường có người hút thuốc.
Thùy Dương (TH) (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)