Quá trình từ tế bào bình thường đột biến thành tế bào ung thư cho đến khi phát triển thành ung thư có thể chẩn đoán được là một quá trình dài, tiến triển và trải qua nhiều giai đoạn, thường mất nhiều năm hoặc thậm chí nhiều thập kỷ.
Do đó, chỉ cần phát hiện bệnh kịp thời và ngăn ngừa, can thiệp, ung thư hoàn toàn có thể phòng ngừa được. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều bi kịch xảy ra do sự chủ quan.
Ở đây, trước tiên tôi muốn nói về một khái niệm - viêm. Viêm thực ra rất dễ hiểu. Ví dụ, viêm mũi, viêm dạ dày, viêm amidan, v.v., tất cả chúng ta đều đã từng trải qua những tình trạng viêm này ở mức độ ít nhiều khác nhau.
Vì nó rất phổ biến nên nghe có vẻ không đáng sợ lắm. Tuy nhiên, một số tình trạng viêm có thể là "dấu hiệu" dẫn đến ung thư hoặc thậm chí là "tổn thương tiền ung thư".
Tổn thương tiền ung thư là gì?
Tổn thương tiền ung thư là tình trạng trước khi một số bệnh phát triển thành ung thư.
Nói một cách chính xác, các tổn thương tiền ung thư không phải là ung thư, nhưng dưới tác động tích lũy lâu dài của một số yếu tố gây ung thư, một phần nhỏ trong số chúng có thể phát triển thành ung thư.
Để đưa ra một ví dụ đơn giản, chúng ta có thể so sánh ung thư với một cây cao vút. Khi đó, các tổn thương tiền ung thư thuộc về giai đoạn hạt giống. Khi chúng đạt đến giai đoạn cây con, chúng là ung thư biểu mô tại chỗ. Khi hạt giống phát triển thành một cây lớn, đó là ung thư xâm lấn. Khi cây đã phát triển và lan rộng hạt giống, đó là di căn và lan rộng.
Tổn thương tiền ung thư có thể do di truyền hoặc mắc phải.
Các tổn thương tiền ung thư bẩm sinh chủ yếu liên quan đến gen. Ví dụ, bệnh đa polyp tuyến gia đình và u xơ thần kinh có liên quan chặt chẽ đến di truyền bẩm sinh. Nếu phát hiện các tổn thương tiền ung thư này ở người thân trực hệ, cần đi khám kịp thời.
Các tổn thương tiền ung thư mắc phải thường liên quan đến thói quen sống xấu, thói quen ăn uống, nhiễm trùng hoặc viêm mãn tính.
Chúng tôi đã đề cập ở trên rằng tình trạng viêm mãn tính là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra các tổn thương tiền ung thư, vì kích thích viêm mãn tính trong thời gian dài có thể dẫn đến sự tăng sinh tế bào bất thường hoặc loạn sản, do đó gây ra các tổn thương tiền ung thư.
Đừng nghĩ rằng tình trạng viêm mãn tính là không đáng kể. Dưới đây là một số liệu thống kê rõ ràng và đáng buồn hơn. Một nghiên cứu do Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế công bố đã xác nhận thêm mối liên hệ giữa tình trạng viêm và ung thư, và chỉ ra:
Khoảng 1/6 số ca ung thư trên toàn thế giới là do nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc vi-rút!
Tạp chí của Đại học Quân y thứ hai cũng công bố một nghiên cứu cho thấy môi trường viêm nhiễm trong cơ thể là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với nhiều loại ung thư và tỷ lệ lớn các bệnh ung thư phát triển trên cơ sở tình trạng viêm mãn tính.
Hãy lấy bệnh viêm gan phổ biến nhất làm ví dụ. Thực tế, chỉ cần ba bước ngắn từ viêm gan đến ung thư gan:
Viêm gan - xơ gan - ung thư gan.
5 căn bệnh phổ biến này thực chất là "tổn thương tiền ung thư" và sẽ dẫn đến ung thư nếu không được điều trị:
① Viêm gan siêu vi mãn tính
Khoảng 80% bệnh nhân ung thư gan ở nước tôi có tiền sử nhiễm virus viêm gan B và 78% ung thư gan nguyên phát là do viêm gan B hoặc C gây ra.
Điều này xảy ra vì sau khi nhiễm virus viêm gan B, các mảnh gen virus dễ dàng tích hợp vào các mảnh tế bào bình thường trong quá trình sửa chữa tế bào lặp đi lặp lại, gây ra đột biến tế bào và hình thành khối u.
Ngoài ra, viêm gan là nguyên nhân phổ biến nhất gây xơ gan. Xơ gan do nhiều nguyên nhân, bao gồm viêm gan, là một bệnh tiền ung thư của ung thư gan.
② Viêm teo dạ dày mãn tính
Viêm teo dạ dày mãn tính, loạn sản ruột, loạn sản và polyp tuyến dạ dày đều là những dấu hiệu quan trọng báo trước sự phát triển của ung thư dạ dày.
Nguyên nhân phổ biến nhất gây viêm teo dạ dày mãn tính là nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori, đây cũng là một yếu tố nguy cơ cao gây ung thư dạ dày. Do đó, chúng ta không thể khẳng định người bị viêm teo dạ dày mãn tính chắc chắn sẽ mắc ung thư dạ dày, nhưng người bị viêm teo dạ dày mãn tính thực sự có nguy cơ mắc ung thư dạ dày cao.
Về mặt lâm sàng, các biểu hiện chính của viêm teo dạ dày mạn tính bao gồm đau bụng trên, chướng bụng, khó chịu ở bụng và chán ăn . Bệnh nhân được chẩn đoán viêm teo dạ dày mạn tính bằng nội soi dạ dày, cũng như những người bị viêm teo dạ dày mạn tính và nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori, cần được điều trị kịp thời.
③ Viêm loét đại tràng mãn tính
Hầu hết viêm ruột không tiến triển thành ung thư, nhưng viêm loét đại tràng mãn tính là một ngoại lệ. Loại viêm ruột này có một đặc điểm rất điển hình, đó là phát triển mạn tính và tái phát nhiều lần, dẫn đến phản ứng viêm dai dẳng ở niêm mạc ruột, gây loạn sản và cuối cùng phát triển thành ung thư.
Dữ liệu cho thấy nguy cơ ung thư đại trực tràng ở bệnh nhân viêm loét đại tràng mãn tính cao gấp 4-8 lần so với người bình thường và nguy cơ ung thư sẽ tiếp tục tăng theo thời gian.
Ví dụ, nếu một người bị viêm loét đại tràng mãn tính trong 10 năm, khả năng mắc ung thư là 1,6%; sau 20 năm, khả năng này tăng lên 8,3%; và sau 30 năm, khả năng mắc ung thư cao tới 18,4%.
④ Viêm cổ tử cung mãn tính
Viêm cổ tử cung được chia thành hai loại cấp tính và mãn tính. Bài viết này tập trung vào viêm cổ tử cung mãn tính.
Mặc dù không phải tất cả viêm cổ tử cung đều tiến triển thành ung thư, nhưng viêm cổ tử cung mãn tính thường do nhiễm virus u nhú ở người (HPV) nguy cơ cao gây ra. Do đó, nếu không được điều trị tích cực, rất có thể bệnh sẽ tiến triển thành ung thư cổ tử cung.
⑤ Viêm tụy mãn tính
So với viêm tụy cấp tính, viêm tụy mãn tính có vẻ không quá nghiêm trọng hoặc gây tử vong.
Ít ai biết rằng nếu viêm tụy mãn tính không được điều trị và can thiệp đúng cách, nó có thể gây ra u nang giả tụy, đây là giai đoạn đầu của ung thư tuyến tụy.
Đặc biệt cần đặc biệt chú ý đến viêm tụy mạn tính có tính gia đình và viêm tụy mạn tính vôi hóa. Là "vua ung thư", ung thư tụy là căn bệnh mà ai cũng phải biết, vì vậy bệnh nhân viêm tụy mạn tính không được chủ quan.
Minh Thanh (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)