Những bàn thắng của họ đã đưa M.U đến với cú ăn ba trứ danh vào mùa giải 1998-1999. Với những người thích thống kê, Cole ghi được 121 bàn trong 275 trận chơi cho M.U, trong khi Yorke có 66 bàn trong 152 trận. Giống như trong khoa học về định lượng, trong bóng đá, những con số nói lên nhiều điều.
Trong mùa giải đầu tiên chơi cùng nhau (1998-1999), Yorke và Cole cùng ghi được 55 bàn. Mùa đó, M.U vô địch Premier League, giành Cúp FA và Champions League. Trong nhiều năm trời, Quỷ đỏ đã không thể thành công ở Champions League ngay cả với Eric Cantona vĩ đại trên hàng công. Cho đến tận năm 1999, M.U vẫn thiếu một chút sự tàn nhẫn trên hàng công để đăng quang, cho tới khi Ferguson tìm ra sự kết hợp Yorke-Cole (tính tổng cộng họ ghi 12 bàn ở châu Âu mùa đó). M.U kiếm thêm được 45 bàn nữa (sáu bàn ở châu Âu) từ cặp tiền đạo của họ ở mùa sau đó, nhưng tất nhiên, không gì sánh được với mùa bóng huyền thoại.
Thành tích của Cole ở M.U (in đậm là mùa đá cặp với Yorke)
Mùa giải |
Bàn thắng |
1994/95 |
12 |
1995/96 |
13 |
1996/97 |
7 |
1997/98 |
25 |
1998/99 |
24 |
1999/00 |
22 |
2000/01 |
13 |
2001/02 |
5 |
Total |
121 |
Thành tích của Yorke ở MU
Mùa giải |
Bàn thắng |
1998/99 |
30 |
1999/00 |
23 |
2000/01 |
12 |
2001/02 |
1 |
Total |
66 |
Bản năng và khả năng di chuyển
Những tiền đạo giỏi nhất đều có bản năng săn bàn. Các trung phong trụ cột của những đội bóng lớn là những người biết cách có mặt đúng chỗ, vào đúng lúc và thực hiện đúng những động tác cần thiết. Nếu thêm vào đó tốc độ, những cú sút hiểm hóc và khả năng chơi bóng bổng bậc thầy, thì chúng ta có được Yorke và Cole ở thời đỉnh cao.
Nhưng điều quan trọng với bộ đôi tiền đạo M.U không phải là kỹ năng của từng cầu thủ, mà khả năng họ kết hợp những linh cảm của nhau trong vòng cấm. Cả hai đều biết ai phải lùi lại, ai phải tiến lên, ai chuyền bóng, ai đón bóng, đón bóng ở đâu, trong tư thế nào, khi nào sẽ giữ bóng, khi nào sẽ phối hợp. Họ như sinh ra để chơi bóng cùng nhau.
Khả năng chạy chỗ của họ bên cạnh nhau trên hàng công, với nhiều cổ động viên áo đỏ, khiến cả Yorke và Cole đều như có mắt sau lưng. Nhiều người hẳn còn nhớ trận đấu có 6 bàn thắng đầy kịch tính giữa M.U và Barcelona mùa giải 1998-1999.
Yorke và Cole nâng cao Cúp Champions League năm 1999
“Chúng tôi bị dẫn trước chỉ sau một phút”, Cole nhớ lại sau khi Yorke đã giã từ sự nghiệp. “Yorkey cân bằng tỉ số sau 25 phút sau một pha phối hợp giữa chúng tôi. Rồi tôi ghi bàn giúp đội nhà vượt lên, và chạy vào cột cờ góc để ăng mừng với một nhóm cổ động viên M.U trên khán đài. Rivaldo gỡ hòa cho Barca, trước khi Yorkey lại ghi bàn: 3-3. Sau đó, những đội bóng lớn nhất châu Âu bắt đầu nghĩ rằng: ngăn Cole và Yorke, và họ có thể ngăn được M.U. Nhưng họ không thể. Sự tự tin của chúng tôi tăng cao và chúng tôi nghĩ mình có thể ghi bàn mỗi tuần. Nếu một trong hai người không ghi bàn, người kia sẽ ghi. Chúng tôi có thể thay đổi vị trí cho nhau tùy thuộc vào đối thủ: Tôi chơi bóng dài, cậu ấy chuyên bóng ngắn, rồi ngược lại, tôi đá lùi, cậu ấy dâng cao, rồi ngược lại. Không ai biết kèm chúng tôi ra sao. Đôi lúc, chúng tôi chơi tự do tùy thích”.
Cảm xúc
Cơ hội luôn là điều mong manh trong bóng đá. Với một huấn luyện viên đã nỗ lực rất nhiều như Ferguson, rốt cuộc thì may mắn cũng đứng về phía ông trong mùa giải 1998-1999.
Chiến lược gia người Scotland, đã quá thất vọng với những cố gắng không thành của M.U ở đấu trường châu Âu, quyết tâm chi mạnh tay cho mùa giải mới. Khi đó, tiền đạo người Hà Lan Patrick Kluivert, người đã đưa Ajax đến với chức vô địch Cúp C1 bốn mùa trước đó, là ưu tiên số một trong danh sách của Ferguson.
Nhưng hợp đồng đó thất bại và Yorke được đưa đến Old Trafford từ Aston vào tháng 8/1998 với giá 12,6 triệu bảng. Ban đầu Cole không thật sự hứng thú với sự có mặt của đồng nghiệp người Trinidad và Tobago do M.U vốn dĩ đã có hai tiền đạo là Ole Gunnar Solskjaer và Teddy Sheringham. Cole sợ rằng anh sẽ mất chỗ. “Tôi là người nhiều khả năng bị bán đi nhất, tôi cũng lo sẽ phải ngồi dự bị suốt”, cựu tuyển thủ Anh nói.
Sau khoảng một tháng thực sự phải ngồi dự bị, Cole được gọi trở lại đội hình xuất phát trong một trận ở Premier League gặp Southampton tháng 10/1998. Phần còn lại là lịch sử. “Tôi đá chính ở trận gặp Southampton và chúng tôi thắng 3-0, với Dwight và tôi đều ghi bàn trong trận thứ hai chúng tôi đá cặp cùng nhau. HLV hẳn đã phải nhận ra điều gì đó”, Cole nhớ lại.
M.U ghi 14 bàn trong 3 trận tiếp theo và huyền thoại Cole-Yorke ra đời. Sự gắn kết và hiểu nhau giữa họ còn bởi họ là những tính cách gần như trái ngược. Cole là người sống nội tâm trong khi Yorke nổi tiếng khắp nước Anh vì thay bồ như thay áo và hay lao xe với tốc độ điên rồ trên đường. “Tôi thấy thích Yorkey ngay lập tức và rất hâm mộ cách anh ấy không hề bận tâm tới mức phí chuyển nhượng khổng lồ. Không có nhiều tiền đạo ngay lập tức hòa nhập được với Old Trafford như Dwight”, Cole khẳng định.
“Chúng tôi là những người hoàn toàn khác nhau. Dwight như muốn nói, xem tôi này, tôi chơi cho M.U, tôi có cô bồ quá xinh, một chiếc xe quá độ. Tôi ngược lại. Tôi từng mua một chiếc Porsche, nhưng không dám lái đi đâu vì bị chú ý quá. Yorkey không bao giờ bận tâm đến những chuyện như vậy.
“Còn trên sân bóng. Khi chúng tôi chơi cùng nhau, đó như một mối tình sét đánh. Mọi thứ đều hoàn hảo. Chúng tôi không cần phải nói nhiều với nhau. Mỗi khi chúng tôi không hài lòng về nhau, chúng tôi chỉ cần nhìn nhau, gật đầu và nói “Okay”. Sự có mặt của Dwight đã thay đổi hoàn toàn sự nghiệp của tôi ở M.U”.
Tuy nhiên, Cole thừa nhận Yorke chưa bao giờ chơi đúng với tiềm năng rất lớn của anh. Cặp đôi hoàn hảo được hình thành từ sau trận đấu với Southampton tháng 10/1998 tan biến vào không khí vào năm 2001. Nhưng chỉ cần hai năm là họ đã có thể sống mãi trong lòng các cổ động viên áo đỏ.
Thể thao & Văn hóa